..:: WORLD ♥ OF ♥ TEEN † HOÀNG HOA THÁM † HIGH SCHOOL ::..
Chào mừng bạn đã đến với Thế Giởi Tuổi Teen!
Hãy giới thiệu forum này đến với những người thân yêu của bạn nhé :")
..:: WORLD ♥ OF ♥ TEEN † HOÀNG HOA THÁM † HIGH SCHOOL ::..
Chào mừng bạn đã đến với Thế Giởi Tuổi Teen!
Hãy giới thiệu forum này đến với những người thân yêu của bạn nhé :")
..:: WORLD ♥ OF ♥ TEEN † HOÀNG HOA THÁM † HIGH SCHOOL ::..
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

..:: WORLD ♥ OF ♥ TEEN † HOÀNG HOA THÁM † HIGH SCHOOL ::..

† 11A9 † Vượt qua tất cả ☻ Xoá bỏ quá khứ ☻ Củng cố hiện tại ☻ Hướng tới tương lai
 
Trang ChínhGalleryTìm kiếmLatest imagesĐăng kýĐăng Nhập

 

 Ác quỉ Dracula - Chương 4,5,6

Go down 
Tác giảThông điệp
Ku.Péo
Thành viên V.I.P
Thành viên V.I.P
Ku.Péo


Points : 745
Bạn được Thanks: : 1
Join date : 25/09/2009
Age : 30
Đến từ : Trung Quốc
Humor : Funny Face ^^

Ác quỉ Dracula - Chương 4,5,6 Empty
Bài gửiTiêu đề: Ác quỉ Dracula - Chương 4,5,6   Ác quỉ Dracula - Chương 4,5,6 Icon_minitime11/10/2009, 5:32 pm

Ác quỉ Dracula - Chương 4

Khi tỉnh giấc, tôi thấy mình đang nằm trên giường của mình. Nếu như không phải là tôi vừa trải qua một giấc mơ thì chắc là bá tước đã mang tôi trở về phòng. Tôi cố trấn an rằng mình vừa nằm mơ, nhưng điều đó không thể giải thích được những gì đang diễn ra bên tôi. Một ví dụ nhỏ để chắc chắn về việc này là quần áo tôi đã được thay ra và gấp lại, nhưng tôi không bao giờ gấp quần áo theo kiểu như thế. Đồng hồ của tôi được tháo ra, nhưng tôi luôn luôn đeo đồng hồ trong khi ngủ, và có rất nhiều những chi tiết đại loại như thế. Nhưng những gì đã xảy ra cho tôi khó tin đến nỗi, có thể giải thích là đầu óc tôi đang có vấn đề, là thần kinh tôi đang rối loạn. Tôi cần phải xem lại điều này. Chỉ có một điều khiến tôi vui mừng. Đó là việc nếu thật sự bá tước mang tôi về phòng và thay quần áo cho tôi, thì hẳn là ông ta làm việc đó hết sức vội vã, và chẳng kịp dòm ngó gì vào túi tôi. Và hiển nhiên là ông ta chưa biết về những gì tôi viết trong nhật ký, nếu không thì ông ta hẳn đã lấy hoặc hủy nó đi. Và bây giờ căn phòng của tôi, tôi đã nhìn nó với cảm giác như đây là nơi trú ẩn của mình. Dù nó vẩn tràn đầy những cảm giác đáng sợ, nhưng không có gì đáng khiếp hãi hơn những người phụ nữ kinh khiếp kia, những kẻ đang thèm khát máu của tôi.


Ngày 18 tháng 5:

Khi tôi trở xuống căn phòng nọ vào ban ngày để tìm hiểu sự thật. Cửa căn phòng nằm ở đỉnh cầu thang đã được đóng kín. Nó đã được chắn ngang bằng một thang gỗ để ngăn chặn những nỗ lực đẩy nó. Tôi thấy khóa cửa không được gài, nhưng nó đã được buộc chặt từ bên trong. Như vậy đó không phải là giấc mộng, đúng như tôi đã lo sợ, và cần phải hành động trên cơ sở của sự suy đóan này.


Ngày 19 tháng 5:

Tôi chắc chắn sắp phải vất vả đây. Tối hôm qua bá tước yêu cầu tôi viết ba bức thư với giọng điệu đầy đe dọa. Bức đầu tiên nói rằng tôi sắp xong công việc và sắp trở về nhà, bức thứ hai nói rằng tôi đã lên đường vào buổi sáng viết thư, và bức thứ ba nói rằng tôi đã rời lâu đài và đang ở Bistriz. Tôi muốn cưỡng lại, nhưng thấy rằng trong tình hình hiện nay, khi mà tôi hòan tòan nằm trong quyền lực của bá tước thì không có gì điên khùng hơn là tranh cãi công khai với ông ta. Và sự từ chối sẽ làm kích động mối nghi ngờ trong lòng ông ta và khiến ông nỗi giận. Ông ta hẳn đã biết là tôi biết quá nhiều, và để tôi sống là sẽ khiến ông gặp nguy hiểm. Cơ hội duy nhất của tôi là kéo dài các cơ hội. Có thể một sự kiện nào đó sẽ xảy ra và cho tôi cơ hội thóat hiểm. Tôi đã từng thấy sự giận dữ bùng lên trong mắt ông ta khi ông ném tung người phụ nữ xinh đẹp nọ. Ông ta giải thích với tôi là bưu điện ở đây hoạt động rất thất thường, và những bức thư của tôi nên viết từ bây giờ để khiến bạn bè đừng lo lắng. Ông ta còn bảo đảm với tôi một cách đầy tin tưởng rằng những bức thư trên sẽ được giữ tại Bistriz trong khi tôi còn ở lại đây, và sẽ được gửi đi vào những lúc thích hợp. Tranh cãi chỉ khiến ông ta có thêm những mối nghi ngờ mới, tôi giả vờ là đồng ý với những ý kiến của ông ta, và hỏi ông ta rằng tôi nên đề ngày tháng như thế nào trong thư.

Ông ta tính tóan trong một phút, rồi trả lời, "Bức đầu nên đề ngày 12 tháng 6, Bức thứ hai ngày 19 tháng 6 và bức thứ ba ngày 29 tháng 6."

Tôi biết rằng đó là quãng đời còn lại của tôi. Chúa hãy giúp tôi!


Ngày 28 tháng 5:

Có một cơ hội để trốn thóat, hay ít ra để gửi đôi chút tin tức về nhà. Một đoàn dân du mục Szgany vừa đến và cắm trại trong khuôn viên lâu đài. Đó là dân gipsy. Tôi đã từng viết về họ. Mặc dù vẩn liên kết với với các chủng tốc gipsy bình khác ở khắp nơi trên thế giới, thì ở nơi này, họ rất đặc biệt. Họ có hàng ngàn người ở Hungary và Transylvania, và luôn luôn sống ngòai vòng pháp luật. Họ có những luật lệ riêng, những quy định riêng về sự quý phái, và gọi nhau bằng những tên riêng. Họ chẳng sợ cái gì cả, chẳng có tín ngưỡng dù vẩn mê tín, và họ chỉ nói chuyện với nhau bằng thứ tiếng digan riêng của mình.
Tôi sẽ viết về nhà vài lá thư và nhờ họ chuyển. Tôi đã thử làm quen với họ bằng cách nói chuyện qua cửa sổ. Họ giở nón, cúi rạp người chào tôi và làm nhiều dấu hiệu khác, tuy nhiên tôi hiểu về những điều này chẳng khác gì tôi hiểu về ngôn ngữ của họ, nghĩa là gần như chẳng hiểu gì…

Tôi đã viết xong những lá thư. Tôi viết cho Mina bằng những ký hiệu viết tắt và nhờ ông Hawkin chuyển giùm. Tôi giải thích cho Mina tình thế của tôi hiện nay, nhưng không nhắc đến những chuyện kinh dị mà tôi chỉ mới phỏng đóan. Nó sẽ làm nàng sốc và khiếp hãi đến chết nếu tôi nói hết với nàng. Như vậy, nếu những bức thư không được chuyển đi, thì bá tước cũng chẳng thể biết những bí mật của tôi cùng những gì tôi đã khám phá được…

Tôi đã gửi những lá thư. Tôi ném nó ra từ chấn song cửa sổ cùng với vài đồng vàng, và ra dấu là tôi muốn nhờ họ chuyển giùm. Người đàn ông nhặt được lá thư này đã đưa nó lên ngực, cúi chào rồi nhét nó vào chiếc mũ lưỡi trai. Tôi không thể làm gì hơn. Tôi quay về thư viện và bắt đầu viết. Khi bá tước không có mặt thì tôi vào đây để viết…

Bá tước đến. Ông ta ngồi cạnh tôi, và với một giọng nói hòa nhã nhất, ông ta lấy ra hai lá thư, "Những người Szgany vừa đưa cho tôi những thứ này, và dù tôi chẳng biết vì sao họ có, tất nhiên là tôi vẩn nhận. Đây!" – ông ta chắc là đã đọc chúng rồi – "Một bức từ ngài gửi cho ông bạn Peter Hawkins của chúng ta. Còn bức kia" – khi ông ta mở phong bì và nhìn thấy những ký hiệu lạ trong bức thư, mặt ông ta tối sầm lại, còn mắt ánh lên vẻ giận dữ man dại, - "bức thư kia là một vật ghê tởm, nó là tổn thương tình bạn và tinh thần hiếu khách của chúng ta! Nó không được ký tên. Tốt thôi! Nó sẽ chẳng gây nên vấn đề gì giữa chúng ta." Và ông ta bình thản đưa bức thư và phong bì vào lửa cho đến khi chúng hòan tòan được thiêu trụi.

Và ông ta tiếp tục, "Còn về bức thư gửi cho ngài Hawkins, hẳn nhiên là tôi sẽ gửi nó, vì nó là của ngài. Thư từ của ngài là bất khả xâm phạm đối với tôi. Xin ngài thứ lỗi vì tôi đã vô tình bóc nó ra. Mong ngài dán nó lại một lần nữa, có được không ạ?" Ông ta đưa bức thư cho tôi, và với một cái cúi chào nhã nhặn đưa cho tôi một phong bì trống.

Tôi chỉ có thể làm theo với sự im lặng. Khi ông ta rời khỏi phòng tôi nghe tiếng chìa khóa xoay nhẹ. Vài phút sau tôi tiến lại và xoay thử. Cửa đã bị khóa.

Một hoặc hai giờ sau, bá tước lặng lẽ đi vào phòng. Sự xuất hiện của ông ta đánh thức tôi, vì tôi ngủ trên ghế sofa. Ông ta rất nhã nhặn và vui vẻ, và do thấy tôi đang ngủ, ông nói, "Ồ, bạn tôi, ngài mệt ư? Hãy lên giường. Đấy là nơi tốt nhất để ngủ. Tôi không thể nói chuyện với ngài tối nay, do còn nhiều chuyện để làm, nhưng mong ngài hãy ngủ ngon giấc."

Tôi đi vào phòng và leo lên giường, và thật lạ lùng, ngủ ngon lành chẳng mộng mị gì. Sự tuyệt vọng đã mang lại sự bình thản cùng với nó.


Ngày 31 tháng 5:

Sáng nay khi thức dậy, tôi định lục trong túi của mình tìm một số giấy và phong bì cho vào túi, để khi có cơ hội thì lại viết, nhưng một lần nữa tôi được dành cho một sự ngạc nhiên và một cú sốc.

Tất cả những giấy tờ của tôi đã biến mất, tất cả những tài liệu của tôi, những giấy tờ vong lục liên quan đến xe lửa và du lịch, những tờ chi phiếu, nói tóm lại tất cả những gì cần thiết cho tôi khi tôi ra khỏi lâu đài đã bị mất sạch. Tôi ngồi suy nghĩ một lát, rồi một ý nghĩ chợt đến với tôi. Tôi vội kiểm tra lại valy quần áo trong tủ quần áo nơi tôi treo quần áo.

Tất cả những quần áo cần thiết để đi ra ngòai, bao gồm áo bành tô và chăn nệm, đã được lấy đi sạch. Thật là một kế hoạch đê hèn…


Ngày 17 tháng 6:

Sáng nay, khi tôi đang ngồi bên giường và cố trấn tĩnh lại đầu óc, thì tôi nghe thấy tiếng chân ngựa đi trên mỏm đá mà chẳng có tiếng roi, tiếng quất hay tiếng cãi cọ nào cả. Tôi vui mừng lao vội ra phía cửa sổ, thấy hai cỗ xe lớn, mỗi cỗ xe thắng tám con ngựa khỏe mạnh đang đi vào bãi rào. Điều khiển mỗi cổ xe là một người Slovak. với chiếc nón rộng, thắt lưng cài khuya to bản, mặc những bộ đồ da cừu dơ bẩn, và đôi giày cao. Họ cũng cầm trên tay mình những cây gậy. Tôi chạy vội về phía cửa, định lao xuống đại sảnh và nhập bọn với họ. Tôi cứ nghĩ rằng cửa sẽ mở ra đón họ. Nhưng một lần nữa tôi nhận một cú sốc. Cánh cửa phòng tôi đã được khóa từ bên ngòai.

Tôi liền chạy ngược về phía cửa sổ, la lớn về phía họ. Họ liếc nhìn tôi lạ lẫm và chỉ trỏ. Nhưng cái gã "hetman" của người Szgany tiến ra, thấy họ đang chỉ trỏ về phía tôi, hắn bèn nói điều gì đó và cười phá lên.

Do đó, những nỗ lực của tôi, những tiếng kêu gào thảm thương, những lời khẩn nài tuyệt vọng, chẳng có tác dụng gì. Họ cương quyết quay đi. Những cỗ xe ngựa chở nặng những cái hộp vuông, được buộc bằng những sợi dây thừng dày. Rõ ràng chúng rỗng bởi vì những người Slovak cầm chúng dễ dàng và qua những tiếng vang khi họ cẩu thả lôi chúng đi.

Khi lấy hàng xuống hết và chất thành một khối lớn trên một góc lớn trên bãi rào, những người Slovak nhận tiền từ những người Szgany, nhổ nước bọt lên nó để cầu may mắn, chậm chạp quay đầu ngựa. Chỉ một lúc sau, tôi nghe tiếng roi ngựa của họ chìm dần và xa khuất.
Ngày 24 tháng 6:

Tối qua bá tước từ giã tôi sớm, và tự khóa cửa nhốt mình trong căn phòng của ông ta. Liền đó, tôi bạo dạn chạy ra cầu thang lượn và nhìn ra cửa sổ trông ra hướng Nam. Tôi nghĩ dù sao cũng nên trông chừng bá tước về những gì sắp xảy ra. Những người Szgany đang tụ tập trong lâu đài và làm một số công việc gì đó. Tôi đóan ra được, vì thỉnh thoảng tôi nghe những tiếng động cố che giấu của cuốc và thuổng. Dù nó là cái gì đi nữa, thì đó cũng đang đi tới tận cùng của một kế họach đê hèn tàn nhẫn.

Tôi đứng tần ngần ở cửa sổ khỏang nữa giờ thì chợt thấy cái gì đó thò ra ở cửa sổ của bá tước. Tôi nép người lại và quan sát chăm chú, thì thấy tòan bộ một thân người thò ra. Lại một cú sốc mới cho tôi khi tôi thấy ông ta đang mặc bộ quần áo mà tôi đã mặc khi tới đây, và quàng qua vai ông là cái túi kinh khiếp mà tôi thấy những người phụ nữ kia mang đi. Tôi không còn nghi ngờ gì về mục đích của ông ta khi mặc quần áo của tôi! Đây là một kế hoạch độc ác mới của bá tước. Ông ta sẽ để cho mọi người nghĩ là họ đã thấy tôi, tạo ra một bằng chứng hiển nhiên là tôi đang ở trong thị trấn và dân làng đang chuyển thư cho chính tôi, và rồi bất kỳ những gì độc ác ông ta sắp làm sẽ được dân địa phương quy tội cho tôi.

Điều làm tôi phát điên lên là mọi thứ cứ tiếp tục diễn ra trong khi tôi phải đứng câm nín tại chỗ, làm một tù nhân thật sự, mà thậm chí còn không được bảo vệ hay an ủi bằng bất bất cứ luật pháp nào, thậm chí cả luật pháp dành cho kẻ phạm tội.

Tôi nghĩ rằng mình nên đợi đến khi bá tước quay về, và tôi kiên trì đứng bên cửa sổ một lúc lâu. Chợt tôi bắt đầu nhận ra rằng trong những tia sáng mặt trăng xuất hiện những đốm nhỏ li ti. Chúng giống như những hạt bụi cực bé, và chúng đang gom dần lại thành một đám mây lờ mờ. Tôi nhìn chúng với một cảm giác dễ chịu, và cảm thấy cõi lòng mình đang thanh thản trở lại. Tôi trườn người ra phía lỗ châu mai, tạo cho
mình một tư thế thoải mái để tận hưởng trò chơi của không khí này.

Chợt một tiếng sói tru trầm và thảm thiết vang lên phía xa trong thung lũng, vượt khỏi tầm nhìn của tôi, làm tôi bật dậy. Nó vang lên càng lúc càng lớn trong tai tôi, và đám mây bụi kia chuyển sang những hình dạng khác như thể chúng đang nhảy múa dưới ánh trăng. Tôi cảm thấy tôi phải đấu tranh dữ dội để chống lại bản năng của chính mình. Tâm hồn xáo trộn, và một nữa tri giác của tôi đang lồng lộn đòi đáp lại lời kêu gọi của tiếng sói tru kia. Tôi đang bắt đầu bị thôi miên!

Đám bụi kia nhảy múa càng lúc càng nhanh hơn. Ánh trăng rung lên như muốn đẩy tôi vào cái khối mờ ảo u ám đó. Càng lúc chúng càng tụ lại và định hình dần thành hình dạng lờ mờ của các bóng ma. Tôi chợt chòang tỉnh, phục hồi các giác quan của mình và gào lên một tiếng lớn làm rung động cả vùng đất.

Những bóng ma đang định hình dần từ những tia sáng trăng kia, chính là những phụ nữ ma quái mà tôi đã từng chịu đày đọa.

Tôi chạy cuống cuồng về phòng mình. Tôi cảm thấy đó là một nơi an tòan vào lúc này, nơi không có những ánh trăng mà chỉ có ngọn đèn để phát ra ánh sáng.

Vài giờ sau, tôi nghe những tiếng động từ phía phòng bá tước, giống như những tiếng than van rền rĩ bị chặn lại. Rồi tiếp sau đó là một khỏang yên lặng sâu lắng, rờn rợn làm tôi ớn lạnh. Với nhịp tim đập thình thịch, tôi thử mở cửa, nhưng nó đã khóa chặt tù nhân của mình. Không thể làm gì được nữa, tôi chỉ đơn giản ngồi xuống và gào lên.

Khi ngồi xuống tôi không nghe thấy những tiếng động nào trong vùng đất, ngoại trừ tiếng rền rĩ than van của một người phụ nữ. Tôi lao vội về phía cửa sổ, kéo màn lên, nhìn qua các chấn song.

Thật sự là có một người phụ nữ, đầu tóc rối bù, hai tay giữ chặt tim trong tình trạng mệt lử vì cố chạy. Bà ta với lên một góc của cửa chính. Khi nhìn thấy mặt tôi, bà ta ném người tới trước, gào lên với một giọng chất đầy sự đe dọa, "Quát vật, trả lại con cho tao!"

Bà ta quỵ người trên đầu gối, đưa tay lên, gào lại câu nói một lần nữa với một âm sắc như bóp nghẹt trái tim của tôi. Rồi bà ta xé tóc, đấm ngực, buông mình vào những hành vi của sự đau khổ tột cùng. Cuối cùng, bà ta lại phóng người tới. Tôi không còn thấy bà ta, như có thể nghe thấy những cánh tay trần của bà đang đấm thình thịch vào cửa.
Rồi từ phía trên cao, có thể là trên đỉnh tháp, vang lên những tiếng thì thầm khô khan, cộc cằn của bá tước. Có lẽ tiếng gọi của ông ta được trả lời bởi những tiếng tru dài và rộng của bầy sói. Vài phút sau, một đám đông sói xuất hiện, như một lũ quỷ địa ngục được dìm lại và bung ra, lao ào ào vào lối đi lớn đi vào bờ rào.

Không hề có tiếng kêu thét của người phụ nữ, chỉ còn những tiếng tru ngắn của lũ sói. Một lúc sau, chúng tản đi và liếm mép.

Tôi không thương hại người đàn bà. Tôi biết với những gì xảy ra cho con bà, bà thà chết còn hơn.

Tôi sẽ làm gì? Tôi có thể làm gì? Làm sao tôi trốn thóat được những điều khủng khiếp của đêm đen, của những điều đen tối và kinh sợ này.


Ngày 25 tháng 6:

Nào ai biết được khi con người phải chịu những điều đau khổ từ đêm đen thì buổi sáng mang lại cho trái tim và mắt anh ta những cảm xúc ngọt ngào và thân mến như thế nào. Khi mặt trời lên cao vào buổi sáng, đập vào đỉnh của cái cổng chính lớn đối diện với tôi, một đốm sáng từ nó chạm vào tôi như một sứ giả mang lại những ánh sáng tốt lành. Những nỗi sợ hải của tôi tan đi thành những lớp vỏ hư ảo của những tia nắng ấm áp.

Tôi phải hành động dưới sự khuyến khích của ánh sáng ban ngày đang rọi trên mình. Tối hôm qua một trong những lá thư đề ngày tháng sẵn của tôi đã được gửi, bắt đầu cho những kế hoạch đẫm máu sẽ xóa sạch mọi dấu vết về sự tồn tại của tôi trên trái đất.

Đừng nghĩ về nó nữa.Hành động thôi!

Tôi luôn luôn bị quấy rầy bởi những sự đe dọa nguy hiểm và kinh sợ vào ban đêm. Tôi chưa hề gặp bá tước vào ban ngày. Phải chăng ông ta ngủ trong khi những người khác thức và thức trong khi những người khác ngủ? Nếu tôi có thể vào được phòng ông ta nhỉ! Nhưng không thể được. Cửa luôn khóa chặt, vô phương.

Thật ra, vẩn còn một cách, nếu như tôi dám làm. Cái nơi mà hắn đi ra được thì liệu người khác cũng có thể làm được hay không? Tôi đã thấy hắn trườn ra từ cửa sổ. Vậy thì sao không bắt chước mà chui vào cửa sổ của hắn? Cách này liều thật, nhưng tôi sẽ còn phải liều hơn nữa. Tôi sẽ đánh cuộc với nó. Điều tệ nhất sẽ là cái chết, nhưng cái chết của con người không giống như cái chết của con bê. May ra tôi sẽ còn sống lại vào kiếp sau. Chúa sẽ giúp cho kế hoạch của tôi! Tạm biệt, Mina, nếu như tôi thất bại. Tạm biệt, những người bạn trung thực và người cha thứ hai của tôi. Tạm biệt tất cả, và sau tất cả là Mina!

Đêm khuya, cùng ngày. – Tôi đã cố hết sức, và Chúa đã giúp tôi trở về phòng mình an tòan. Tôi phải ghi lại thật chi tiết theo đúng thứ tự. Tôi lấy hết can đảm của mình tiến ra cửa sổ, và bắt đầu leo ra ngòai. Những tảng đá to lớn và lởm chởm, vôi vữa đã gần như trôi sạch dưới sự bào mòn của thời gian. Tôi tháo giày, và bắt đầu cuộc mạo hiểm của mình. Tôi liếc nhìn xuống một lần, và biết chắc rằng một cái nhìn bất chợt thoáng qua nữa sẽ khiến cái vực sâu ghê gớm này chiến thắng tôi, và tôi tránh không nhìn nó. Tôi xác định được phương hướng và khỏang cách đến chỗ cửa sổ của bá tước khá tốt, và dồn hết mọi sức lực của mình, tận dụng mọi cơ hội có thể có. Tôi gần như quá kích động đến nỗi chẳng còn cảm thấy hoa mắt chóng mặt gì nữa, và hình như chỉ một lúc sau là tôi đã đứng trên ngưỡng cửa sổ của phòng bá tước và cố với lấy khung cửa. Tuy nhiên, tôi cảm thấy vô cùng xúc động , khi tôi cúi xuống và trượt người vào trong cửa sổ. Sau đó tôi nhìn quanh phòng tìm bá tước, và bắt đầu cuộc khai phá với sự ngạc nhiên và vui mừng khôn tả. Căn phòng trống rỗng! Trong phòng là một số vật dụng nghèo nàn, lạ lẫm và có vẻ chưa bao giờ được dùng đến.

Đồ vật trong phòng ở cùng tình trạng như ở trong căn phòng phía Nam, nghĩa là phủ đầy bụi. Tôi tìm chìa khóa, nó không cắm trong ổ khóa, và cũng chẳng thấy nó ở đâu cả. Vật duy nhất tôi tìm thấy là một khối vàng khổng lồ chất ở một góc, đủ các loại tiền vàng, Ý, Anh, Áo, Hungarian, Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, bao phủ bởi một lớp bụi, hình như đã nằm ở đây lâu lắm rồi. Không có loại nào ít hơn ba trăm năm cả. Cũng có các loại tiền đồng, đồ trang sức và nữ trang, nhưng chúng đã cũ kỹ và phai màu cả.

Tại một góc phòng ở một cái cửa lớn, và tôi thử tiếp. Cái mà tôi muốn tìm, là chìa khóa phòng hoặc chìa khóa cửa ngòai đều chưa tìm được, và tôi phải tiếp tục tìm kiếm, hoặc những cố gắng của tôi xem như bỏ đi. Cửa mở, và dẩn vào một lối đi bằng đá qua một cầu thang uốn khúc đi dần xuống.

Tôi đi xuống, cẩn thận từng chút một. Tôi đi trên một cầu thang tăm tối, chỉ soi sáng lờ mờ. Cuối cầu thnag là một lối đi hình ống tối tăm, tỏa ra một thứ mùi chết chóc, bệnh hoạn, một thứ mùi của những thế giới cổ xưa đang quay về. Khi tôi đi qua lối đi này, cái mùi trên càng nặng nề và rõ hơn. Cuối cùng tôi đẩy một cánh cửa nặng nề đã hé mở, và đi vào một nhà thờ cổ hoang tàn, mà bây giờ đã được dùng làm bãi tha ma. Trần nhà bị vỡ, hai mảnh rơi xuống trên hầm mộ, nhưng nền nhà thì vừa mới được đào bới mới đây thôi. Giữa lòng đất là những cái hộp lớn bằng gỗ rõ ràng vừa được mang đến bởi những người Slovak.

Không có ai ở đây, và tôi cẩn thận dò xét từng inch một, sao cho không bỏ sót thứ gì. Tôi thậm chí còn cả gan lần xuống hầm mộ, dù ở đây ánh sáng chỉ lờ mờ run rẩy. Tôi vừa kiểm tra vừa run rẩy đến chết khiếp cả người. Ở hai cái mộ đầu tiên tôi chẳng tìm thấy gì đặc biệt, ngòai hai mảnh áo quan vỡ vụn và hàng đống bụi. Tuy nhiên ở cái thứ ba thì có lẽ tôi tìm thấy những thứ gì đó.
Ở đây, trong một cái hộp lớn, ở đây có đến mười lăm cái tất cả, nằm trong một vũng đất mới đào, là bá tước Dracula đang nằm! Hắn có vẻ chết hoặc đang ngủ. Tôi không thể khẳng định được, vì mắt hắn vẩn mở trừng trừng và bất động, nhưng không có cái vẻ lạnh giá của cái chết, đôi má thì ấm nóng dù xanh xao. Môi vẩn dỏ rực như thường lệ. Nhưng chẳng hề có sự chuyển động nào, không mạch, không hơi thở, không nhịp đập của tim.

Tôi cúi xuống hắn, thử tìm một dấu hiệu nào đó của sự sống, nhưng vô hiệu. Hắn không thể nằm đây lâu được, do dấu đất cho thấy là nó mới được đào lên vài giờ trước. Phía mặt kia của cái hộp được đục thủng vài lỗ đây đó. Tôi nghĩ là hắn giữ chìa khóa trên người, nhưng khi tôi vừa thử lục tìm, thì những con mắt chết ấy chợt trở nên căm tức, làm cho tôi gần như bất tỉnh. Tôi chạy vội ra khỏi nơi đó, rời khỏi phòng bá tước bằng cửa sổ, trườn trở lại trên những bờ tường của lâu đài. Trở về phòng mình, tôi buông mình xuống giường và suy nghĩ.


Ngày 29 tháng 6:

Hôm nay là ngày đề trên bức thư cuối cùng của tôi, và bá tước bắt đầu chứng minh sự xác thực của nó. Một lần nữa tôi thấy hắn dùng kỹ năng của lòai thằn lằn để leo tường xuống phía dưới, cũng từ cái cửa sổ đó, với bộ quần áo của tôi. Tôi muốn có trong tay một cây súng hay một loại vũ khí gì đó để tiêu diệt hắn, nhưng tôi sợ rằng không vũ khí nào của lòai người có thể làm gì được hắn. Tôi không dám đợi hắn trở về, vì sợ gặp những người phụ nữ gớm ghiếc kia. Do đó tôi trở về thư viện, và đọc sách đến khi ngủ thiếp đi.

Tôi được đánh thức bởi bá tước, hắn nhìn tôi với một vẻ cương quyết mà một con người có thể tạo ra được, và nói. "Tối mai, bạn thân mến, chúng ta phải chia tay rồi. Ngài trở về nước Anh xinh đẹp của ngài, tôi còn một số công việc phải giải quyết và có thể là chúng ta sẽ không còn bao giờ gặp lại nhau. Lá thư của ngài đã được gửi đi. Ngài mai tôi không có mặt ở đây, nhưng mọi thứ đã chuẩn bị sẳn sàng cho cuộc hành trình của ngài. Ngày mai những người Szgany sẽ đến đây, họ có một số chuyện phải làm, và sau đó cũng sẽ có một số người Slovak đến. Khi họ đi, xe ngựa của tôi sẽ đưa ngài đi đến BorPo Pass, ở đó có chuyến xe lửa từ Bukovina đi Bistriz. Nhưng tôi luôn hy vọng là sẽ còn có dịp đón tiếp ngài tại lâu đài Dracula."

Tôi nghi ngờ hắn, và quyết định kiểm tra sự thành thật của hắn. Sự thành thật! Điều này sẽ làm xúc phạm trái đất này nếu gắn nó cho một loại quái vật như hắn, và tôi hỏi với vẻ trống rỗng, "Vì sao tôi không đi ngay tối nay?"

"Bởi vì, thưa ngài, cỗ xe và ngựa của tôi đang có chuyện khác phải làm."

" Tôi sẽ đi bộ, không có vấn đề gì. Tôi muốn đi ngay tức khắc."

Hắn ta mỉm cười, với nụ cười dịu dàng, mềm mại ma quái của hắn, và tôi biết rằng luôn có cạm bẫy ẩn náu sau vẻ dịu dàng của hắn. Hắn bảo, "Còn hành lý của ngài?"

"Tôi không cần. Nó sẽ được gửi đến cho tôi sau."

Bá tước đứng lên, và với vẻ thành thực ngọt ngào đạt đến nỗi tôi dụi cả mắt mình"Câu nói của ngài, một người Anh, đã đi vào tim tôi, và tinh thần của truyền thống hiếu khách của chúng tôi luôn là 'Chào mừng những người khách đến, đẩy mau những phút phân ly.' Hãy đi với tôi, người bạn trẻ thân mến. Chưa đầy một giờ nữa ngài sẽ sẳn sàng ra đi từ nhà tôi như ước nguyện của ngài, dù tôi rất buồn về ý muốn đột ngột của ngài. Chúng ta đi!" Với một uy nghiêm bệ vệ, hắn cầm lấy cây đèn, dẩn tôi xuống thang và đi ngang đại sảnh. Chợt hắn ngừng lại. "Hark!"

Vọng lại là những tiếng tru của những con sói. Có vẻ như những âm thanh này lên xuống trầm bỗng theo nhịp tay của hắn, giống như dàn nhạc dưới gậy chỉ huy của nhạc trưởng. Sau một thóang im lặng, hắn bước đến cửa, với một vẻ trịnh trọng, đẩy cái then cài nặng nề, tháo sợi xích, và bắt đầu mở cửa.

Trước sự ngạc nhiên của tôi, cánh cửa đã được mở khóa. Đầy nghi ngờ, tôi liếc nhìn quanh, nhưng chưa hiểu được điều gì.

Khi cánh cửa bắt đầu mở, những tiếng kêu của bầy sói càng trở nên lớn và hung dữ hơn. Quai hàm của chúng đỏ rực, răng nghiến trèo trẹo, và những cái chân đầy móng vuốt của chúng chồm tới, hướng về phía cánh cửa đã mở ra. Đến lúc này tôi biết rằng không thể chống lại bá tước. Với những kẻ thừa hành dưới quyền hắn như vậy, tôi không thể làm gì được.

Nhưng cánh cửa vẩn tiếp tục mở ra, và chỉ còn thân người bá tước đứng trên kẻ hỡ. Bất thình lình tôi chợt nhận ra tình thế kinh hòang của mình. Tôi sẽ được đem dâng hiến cho lũ sói, và đó xuất phát từ sự thúc giục của chính tôi. Lại thêm một ý tưởng ác độc ma quái của bá tước, và tôi kêu gào lên với hy vọng cuối cùng, "Đóng cửa lại! Tôi sẽ đợi đến sáng mai." Và tôi lấy tay che mặt, để giấu những dòng nước mắt cay đắng của mình.

Bá tước đóng mạnh cánh cửa lại. Tiếng cái then cài vang rền cả tiền sảnh khi nó được cài trở lại.

Không nói thêm một lời, chúng tôi quay trở về thư viện, và sau một hoặc hai phút tôi trở về phòng mình. Phút cuối tôi thấy bá tước Dracula gửi cho tôi một cái hôn từ tay hắn, mắt hắn đỏ rực lên ánh sáng của chiến thắng, và với một nụ cười làm cho Judas dưới địa ngục cũng phải tự hào.

Khi tôi trở về phòng và nằm xuống, tôi cảm thấy hình như có tiếng thì thầm ngòai cửa. Tôi rón rén bước đến và lắng nghe. Nếu tai tôi không đánh lừa tôi, thì tôi nghe thấy tiếng bá tước.

"Trở lại! Trở về chỗ của chúng mày! Thời điểm của tụi mày chưa đến. Hãy đợi đã! Phải kiên nhẫn chứ! Tối nay nó là của tao. Tối mai sẽ là của mày!"

Có những chuỗi cười nhẹ, gờn gợn vang lên, và trong cơn giận dữ, tôi mở tung cửa lao ra. Tôi thấy ba người phụ nữ kinh khiếp kia đang liếm mép. Thấy tôi, chúng cùng phá lên cười một cách kinh dị và chạy đi.

Tôi trở về phòng mình, quỳ xuống trên đầu gối. Chẳng lẽ đã đến lúc kết cục ư? Ngày mai! Ngày mai! Thiên chúa, xin hãy cứu tôi, và bây giờ tôi chỉ còn ngài thôi!


Ngày 30 tháng 6:

Đây có thể là những dòng cuối cùng tôi viết vào nhật ký. Tôi ngủ cho đến lúc gần rạng đông, và khi chòang tỉnh, tôi lại quỳ trên đầu gối. Tôi muốn làm sao khi Thần Chết tới, hắn thấy tôi đã sẳn sàng.

Cuối cùng tôi cảm thấy không khí có cái gì đó thay đổi, và biết rằng trời đã sáng trở lại. Tiếng gà gáy vui vẻ vang lên, và tôi biết mình đã an tòan. Hết sức vui vẻ, tôi mở cửa và chạy xuống tiền sảnh. Tôi thấy cửa không khóa, và lúc này cơ hội trốn thóat đã trải rộng trước mặt tôi. Với những cánh tay run rẩy và háo hức, tôi tháo xích và đẩy mạnh cái then cài khổng lồ.

Nhưng cánh cửa chẳng hề nhúc nhích. Sự tuyệt vọng bao phủ tôi.Tôi đẩy và đẩy cánh cửa, lắc nó cho đến khi nào hai cánh cửa chịu trượt ra, bất chấp sự nặng nề kinh khiếp của nó. Tôi có thể thấy cái móc nơi then cài cửa. Nó đã được khóa lại sau khi tôi rời khỏi bá tước.
Một ham muốn điên dại xui khiến tôi phải lấy được chìa khóa bởi bất kỳ giá nào, và tôi quyết định sẽ bò qua bức tường lần nữa, quay về chỗ phòng bá tước. Hắn có thể giết tôi, nhưng với ma quỷ, cái chết có lẽ một sự lựa chọn tốt đẹp nhất. Không một phút ngần ngừ tôi lao về phía cửa sổ phía Đông, leo tường xuống phòng bá tước giống như lần trước. Trong phòng không có ai. Đó là điều tôi đang chờ đợi. Tôi không thể tìm thấy chìa khóa ở đâu. Đống vàng thì vẫn như cũ. Tôi đi qua cánh cửa ở góc phòng và leo xuống cầu thang, đi qua cái lối đi tăm tối đến ngôi nhà thờ cổ. Tôi biết rõ đó là nơi có thể tìm ra con quái vật này.

Cái hộp vẩn ở chỗ cũ, gần bức tường, nhưng đã được đậy nắp. Chưa đóng lại, nhưng đinh đã cài sẳn, chỉ còn chờ quai búa.

Tôi biết tôi phải tìm chìa khóa trên cơ thể bá tước, vì vậy tôi nâng cái nắp lên và ném nó về phía tường. Và những cái tôi thấy được làm tôi dựng tóc gáy vì kinh hãi. Bá tước đang nằm đó, nhưng xem ra hắn đã trẻ lại phân nữa. Mái tóc và bộ râu bạc trắng của hắn bây giờ đã lốm đốm muối tiêu. Đôi má đầy đặn hơn, và làn da trắng lại ửng màu hồng ngọc. Miệng hắn đỏ hơn bao giờ hết, môi hắn lấm tấm máu tươi, chảy ra từ một khóe môi lan xuống cằm và cổ hắn. Thậm chí đôi mắt sâu, rực lửa của hắn bây giờ cũng phồng lên, khóe mắt nọng xuống. Có vẻ như tòan bộ cái sinh vật ghê tởm này chỉ được chứa bằng máu. Hắn nằm đó như một con đĩa no nê, giải quyết cơn đói bằng một sự phè phỡn.

Tôi rùng mình khi tôi cúi xuống và chạm vào hắn, và mọi giác quan của tôi như đứt tung với sự động chạm này, nhưng tôi vẩn phải tiếp tục tìm kiếm, hoặc tôi sẽ thất bại. Khi đêm đến cơ thể tôi sẽ là buổi tiệc lớn sau cuộc chiến với ba sinh vật kinh khiếp kia. Tôi lục tìm khắp cơ thể bá tước, nhưng không thể tìm thấy chìa khóa. Một nụ cười chế nhạo hiện ra trên khuôn mặt căng phồng kia làm tôi như phát điên lên. Điều này nghĩa là tôi sẽ được gửi về Luân Đôn, và có thể là hàng thế kỷ sau hắn sẽ đến, giữa lúc nhúc hàng triệu sinh vật giúp hắn thỏa mãn sự thèm khát máu tươi, và tiếp tục mãi mãi cái chu kỳ tạo ra những kẻ nữa quái vật sống bất lực lang thang.

Ý nghĩ này làm tôi như điên như dại. Một ham muốn tột độ xâm chiếm tôi là quét sạch cái loại ma quỷ này ra khỏi mặt đất. Không có vũ khí trong tay, tôi tóm lấy một cây cuốc mà những người làm dùng để đào đất, nâng cao nó lên, rồi đập mạnh chiều lưỡi vào cái khuôn mặt đáng ghét kia. Nhưng khi tôi quay đầu lại, ánh mắt của bá tước chiếu lên tôi, mắt hắn ánh lên vẻ man dại của lòai rắn. Cái nhìn của hắn làm tôi như tê liệt, cái cuốc rung lên trong tay tôi và chỉ chạm qua mặt hắn, tạo một vết trầy sâu trên trán. Cái cuốc rời khỏi tay tôi, rơi cắt ngang cái hộp. Khi tôi kéo nó ra thì lưỡi cuốc kéo luôn nắp hộp rơi xuống phủ lại lên hộp, che tôi khỏi cái tia nhìn kinh khủng đó. Cái nhìn cuối cùng tôi nhìn thấy trên khuôn mặt căng phồng, đầy máu và nhăn nhúm với vẻ gớm ghiếc đáng ra nên giữ chính nó ở tầng địa ngục thấp nhất. Tôi suy nghĩ xem mình nên làm gì tiếp theo, nhưng đầu óc tôi như bốc lửa, và tôi chờ đợi với sự tuyệt vọng hòan tòan. Trong lúc chờ đợi, tôi nghe thấy từ xa bài hát của dân gipsy với những tiếng chúc tụng càng lúc càng đến gần. Và cùng với bài hát của họ là tiếng bánh xe nặng nề quay và tiếng roi quất. Người Szgany và người Slovak mà bá tước nói đang đến. Nhìn một lần cuối về phía cái hộp đang chứa cái thân người ma quái kia, tôi chạy ra khỏi chỗ đó và trở về phòng bá tước, quyết định sẽ chạy ra ào ra ngay khi cánh cửa vừa được mở. Với đôi tai căng thẳng, tôi nghe thấy tiếng chìa khóa quay cót két ở phía dưới, và một cánh cửa lớn kéo sập xuống. Hẳn là còn một lối đi nữa ở phía dưới và có ai đó còn có chìa khóa.

Khi những tiếng chân nặng nề và chết chóc xa dần, để lại những tiếng động vang rền trên đường, tôi quay xuống trở lại khu hầm mộ, nơi mà tôi có thể tìm thấy con đường thóat mới, nhưng ngay lúc đó tôi nghe thấy một tiếng gió mạnh thổi qua, và cánh cửa dẩn đến cầu thang cuốn đóng sầm lại khiến đám bụi trên rầm đỡ bay tung lên. Khi tôi chạy đến để đẩy nó ra, thì niềm hy vọng của tôi nhanh chóng tan biến đi. Một lần nữa tôi lại là tù nhân, và cái lưới kinh khủng bao quanh tôi mỗi lúc lại mỗi gần.

Khi tôi viết những dòng này, ở đường đi bên dưới tôi nghe thấy nhiều tiếng chân nặng nề, những tiếng va đập mạnh mẽ. Không nghi ngờ gì nữa, những chiếc hộp được chở đi với đất bên trong. Rồi có tiếng búa đóng. Những chiếc hộp đã được đóng đanh lại. Bây giờ thì tôi có thể nghe thấy những tiếng chân nặng nề đi dọc theo đại sảnh, trong khi có những bước chân thảnh thơi đi sau họ.

Cổng được đóng lại, dây xích căng lên. Có tiếng chìa khóa xoay trong ổ khóa. Tôi nghe thấy tiếng chìa khóa rút ra, những cánh cửa khác mở ra và đóng lại. Tôi nghe thấy tiếng khóa cửa và cài then.

Tôi bây giờ chỉ còn đơn độc trong lâu đài với những người phụ nữ kinh hãi kia. Faugh! Mina cũng là phụ nữ vậy, nhưng giữa họ chẳng có điểm giống nhau nào. Bọn chúng là quỷ sứ từ trong hố chui lên!

Tôi sẽ không ở đây một mình với chúng. Tôi sẽ thử leo qua lâu đài xa hơn những lần tôi đã từng thử trước đây. Tôi sẽ mang theo một ít vàng, tôi sẽ cần chúng về sau. May ra thì tôi có thể tìm thấy con đường ra khỏi nơi kinh khiếp này.

Nào, bây giờ thì lên đường về nhà! Hãy đến với chuyến xe lửa nhanh nhất và gần nhất! Tránh xa ra khỏi cái nơi đáng nguyền rủa, vùng đất đáng nguyền rủa này, nơi mà quỷ sứ cùng con cái của nó vẩn dạo chơi bằng những bước chân không chấm đất!

Và cuối cùng thì lòng thương của Chúa sẽ vẩn hơn những con quái vật này, còn vách núi thì sâu và thẳng đứng. Nhưng đó là nơi con người có thể ngủ như một con người. Tạm biệt tất cả. Mina ơi!
Về Đầu Trang Go down
Ku.Péo
Thành viên V.I.P
Thành viên V.I.P
Ku.Péo


Points : 745
Bạn được Thanks: : 1
Join date : 25/09/2009
Age : 30
Đến từ : Trung Quốc
Humor : Funny Face ^^

Ác quỉ Dracula - Chương 4,5,6 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác quỉ Dracula - Chương 4,5,6   Ác quỉ Dracula - Chương 4,5,6 Icon_minitime11/10/2009, 5:32 pm

Ác quỉ Dracula - Chương 5

THƯ CỦA CÔ MINA MURRAY GỬI CHO CÔ LUCY WESTENRA
Ngày 9 tháng 5.

Bạn Lucy thân yêu,

Tha lỗi cho mình về việc mình không viết thư cho bạn suốt một thời gian dài vừa qua, nhưng tất cả cũng chỉ vì công việc đã khiến mình tối tăm mặt mũi. Với cương vị là một trợ lý cho hiệu trưởng, mình càng lại phải cố gắng. Mình chỉ ao ước được đi biển với bạn, tha hồ tán gẫu và mơ mộng về tất cả mọi thứ trên đời. Dạo gần đây mình làm việc hăng lắm. Mình muốn tỏ ra xứng đáng với anh Jonathan mà, và mình rấr chăm tập viết tốc ký. Khi chúng mình cưới nhau, thì việc mình biết viết tốc ký sẽ rất có ích cho anh Jonathan. Mình có thể ghi lại tất cả những gì anh ấy nói rồi sau đó đánh máy lại cho anh ấy. Bạn thấy đấy, đó là một lý do chính đáng khiến mình học tập rất hăng hái.

Anh ấy và mình thỉnh thỏang vẩn viết thư tốc ký cho nhau, và anh ấy đang viết tốc ký lại chuyến du hành của anh ấy ở nước ngòai. Khi nào mình đến chơi với bạn, mình cũng sẽ làm như vậy. Tất nhiên rằng quyển nhật ký của mình không phải là một thứ nhật ký mà mỗi tuần được dành đúng một trang với ngày chủ nhật được đánh thành một dấu phân cách ở góc. Mình sẽ chỉ viết khi nào mình thấy thích thôi.

Nó hẳn nhiên không phải là một thứ thú vị đối với nhiều người khác rồi, nhưng mình đâu có viết cho họ. Mình sẽ cho Jonathan xem khi nào mà hai chúng mình cùng chia xẻ với nhau mọi thứ trong thế giới này. Còn hiện giờ thì nó thật sự là một cuốn sách bài tập đấy. Mình sẽ cố làm tất cả những gì mà mình thấy các phu nhân của những nhà báo thường làm, đi phỏng vấn và viết lại những chi tiết, cố mà nhớ lấy những cuộc đàm thoại. Mình có nghe nói rằng, với một chút luyện tập, con người có thể nhớ hết tất cả những gì anh ta nghe thấy trong suốt cả ngày.

Tuy nhiên, chúng mình sẽ cùng thử. Mình sẽ nói với bạn về những kế hoạch nho nhỏ của mình khi chúng ta gặp nhau. Bây giờ thì anh Jonathan đang ở xứ Transylvania xa ơi là xa. Anh ấy khỏe, và sẽ trở về trong khỏang tuần lễ nữa. Mình lúc nào cũng nóng lòng chờ tin anh ấy. Được đi thăm một đất nước xa lạ thì tuyệt thật nhỉ. Chẳng biết bao giờ thì chúng mình, tức là anh Jonathan và mình ấy mà, được cùng nhau đi du lịch ở những vùng đất xa xôi ấy. Thôi, đồng hồ điểm mười tiếng rồi. Tạm biệt nhé. Bạn Mina thân yêu của bạn.

Nhớ kể cho mình tất cả mọi thứ về bạn khi bạn viết thư. Bạn cũng đã lâu rồi chẳng hề liên lạc gì với mình. Mình nghe nhiều tin đồn về bạn lắm đấy nhé, đặc biệt là về một người đàn ông cao lớn, đẹp trai, tóc xoăn đấy, thế là thế nào???

THƯ CỦA LUCY WESTENRA GỬI MINA MURRAY

Ngày 17, đường Chatham

Thứ tư

Bạn Mina thân yêu,

Mình phải nói là bạn chẳng hề công bằng với mình tí nào. Mình đã viết cho bạn hai lần kể từ khi chúng mình chia tay, còn lá thư mình vừa nhận chỉ là bức thư thứ hai của bạn. Ngòai ra, mình chẳng có gì để kể với bạn cả. Chẳng có gì hấp dẩn cả, thế đấy.

Thị trấn bây giờ tuyệt lắm. Khi mà đi dạo hay đánh xe ngang công viên, chúng mình cứ như lạc vào một phòng triển lãm tranh vậy. Còn về cái anh chàng cao lớn tóc xoăn ấy hả, thiên hạ cứ tòan là đồn những chuyện nhảm mà bạn cũng tin. Chắc là họ trông thấy anh chàng mà mình gặp ở buổi nhạc Pop gần đây nhất ấy mà.

Đấy là anh Holmwood. Anh ấy hay đến chỗ tụi mình chơi, và anh ấy nói chuyện với Mamma nhà mình hợp lắm, họ có rất nhiều điểm chung.

Gần đây bọn mình gặp một anh chàng cứ như sinh ra là để dành cho bạn ấy, đấy là mình nói nếu bạn chưa đính hôn với anh Jonathan. Anh ta là một anh chàng tuyệt lắm, rất đẹp trai, phong lưu và gia thế. Anh ta là bác sĩ và hiển nhiên là thông minh cực kỳ. Cứ như là trong truyện cổ tích vậy! Anh ta chỉ mới hai mươi chín tuổi, vậy mà đang điều khiển một viện điều dưỡng cực lớn dành các bệnh nhân tâm thần. Anh Holmwood giới thiệu anh ấy với mình, anh ấy đến làm quen và bây giờ thường đến đây thăm mình lắm. Mình nghĩ anh ấy là người đàn ông cương quyết nhất mà mình đã từng gặp. Anh ấy có một vẻ bình thản tuyệt đối. Chẳng có gì có thể làm anh ấy mất quân bình được. Mình tưởng tượng anh ấy chắc là phải có cái vẻ quyền lực tuyệt đối như vậy để làm việc với các bệnh nhân của mình. Anh ấy có sở thích nhìn thẳng vào mặt người đối diện để đọc những ý nghĩ của họ. Anh ta cũng thử làm điều đó với mình, nhưng mà đừng có hòng nhé, lần này thì anh ấy đã gặp phải một quả hạch khó đập vỏ đấy. Cứ nhìn qua gương là mình biết tất.

Bạn đã bao giờ cố đọc trên khuôn mặt của chính mình chưa. Mình đã thử rồi đấy, và mình có thể nói rằng đấy không phải là một sự nghiên cứu vô ích đâu, và nó sẽ đem đến cho bạn nhiều rắc rối hơn bạn tưởng nếu bạn chưa bao giờ thử nó đấy.

Anh ấy nói rằng mình đem đến cho anh ấy một trường hợp tâm lý đáng chú ý. Và mình khiêm tốn nghĩ rằng đúng như thế đấy. Bạn cũng biết rồi đấy, mình chẳng bao giờ có một quan tâm thật sự đến thời trang để ăn mặc cho thật hợp mốt cả. Ăn diện là một công chuyện tẻ ngắt. Thời trang thì luôn thay đổi xoành xoạch và chẳng bao giờ có cho mình một chính kiến xác định. Arthur nói như thế mỗi ngày đấy thôi.

Mina ơi, đó là tất cả đấy. Từ bé đến giờ chúng ta đã luôn nói cho nhau những bí mật của mình. Chúng ta cùng ăn và ngủ với nhau, chúng ta khóc và cười với nhau, và bây giờ, dù mình đã nói rồi, mình vẩn muốn nói tiếp nữa. Mina ơi, chẳng lẽ bạn lại không đóan được ra sao? Mình yêu anh ấy mất rồi. Mình thẹn đỏ mặt khi viết ra những điều này đấy, bởi vì mình nghĩ dù anh ấy yêu mình, anh ấy cũng chưa hề nói với mình thành lời. Nhưng, ôi, Mina ơi, mình yêu anh ấy. Mình yêu anh ấy! Chính điều đó làm mình sung sướng vô cùng.

Mình ước là mình có thể ngồi bên bạn, bạn yêu quý, ngồi bên ngọn lửa tàn, như chúng ta ngày xưa vẩn làm ấy, rồi mình sẽ kể cho bạn nghe mình đang cảm thấy thế nào. Mình không biết phải làm cách nào để nói cho bạn hiểu hết những điều này. Mình buộc phải ngừng lại thôi, nếu không mình sẽ xé luôn bức thư này mất. Mình chẳng muốn dừng đâu, mình muốn kể cho bạn tất cả cơ. Hãy viết lại cho mình, và nói mình biết bạn nghĩ gì về những chuyện này. Mina ơi, cầu nguyện cho hạnh phúc của mình nhé.

Lucy

T.B. Có lẽ mình cũng chẳng cần phải nói với bạn rằng đây là điều bí mật đấy. Tạm biệt lần nữa. L

THƯ CỦA LUCY WESTENRA
GỬI CHO MINA MURRAY
Ngày 24 tháng 5

Mina thân yêu,

Cám ơn, cám ơn bạn nhé, cám ơn vô vàn vì bức thư êm đềm của bạn. Kể hết mọi chuyện với bạn để được bạn cảm thông, điều ấy thật là tuyệt. Bạn thân yêu ơi, có những điều chẳng bao giờ xảy đến nhưng thình lình nó sẽ ào ạt dội xuống đầu mình. Câu danh ngôn cổ này thật là đúng. Mình đây, sắp hai mươi tuổi vào tháng Chín, và cho đến hôm nay chưa hề có ai cầu hôn mình, một lời cầu hôn thật sự ấy, nhưng thình lình hôm nay mình nhận được đến ba lời cầu hôn. Cứ như là trong truyện cổ tích vậy! Ba lời cầu hôn trong một ngày! Đấy hẳn không phải là một điều tồi tệ rồi! Mình cảm thấy rất tiếc, thật sự và thành thực tiếc cho hai chàng trai không hạnh phúc. Ôi, Mina ơi, mình hạnh phúc đến nổi mình không biết điều gì đang xảy ra cho mình nữa. Những ba lời cầu hôn! Nhưng mà tốt nhất đừng nói gì với những cô gái khác, nếu không họ sẽ lại tưởng tượng ra những ý kiến thái quá, rồi họ sẽ cảm thấy thương tổn và tự ti nếu trong cái ngày quan trọng nhất trong đời họ không nhận được ít nhất sáu lời cầu hôn. Có những cô gái như vậy đấy! Bạn và mình, Mina thân mến ơi, những người đã đính hôn và sẽ mau chóng trở thành những người phụ nữ có gia đình chuẩn mực, chúng mình có thể bỏ qua những sự phù phiếm ấy. Ôi, mình đã nói với bạn rằng có ba chàng trai cầu hôn mình, thì bạn phải giữ bí mật ấy nhé, bạn thân mến, tất nhiên là ngoại trừ anh Jonathan của bạn rồi. Bạn có thể nói với anh ta, bởi vì nếu mình ở vào hoàn cảnh của bạn, mình cũng sẽ nói với anh Arthur thôi. Một người phụ nữ thì nên kể hết mọi chuyện với chồng mình. Bạn nghĩ sao, Mina? Và mình nghĩ mình cũng nên công bằng một chút. Những người đàn ông thì thích những người phụ nữ, đặc biệt là vợ họ, biết giữ im lặng. Còn phụ nữ, mình e rằng sẽ chẳng bao giờ giữ nỗi bí mật những điều mà họ nên giấu.

Nào, bạn thân mến ơi, người số Một đến ngay trước bữa ăn trưa. Mình đã kể về anh ấy với bạn rồi đấy, bác sĩ John Seward, trưởng viện tâm thần, người có cái quai hàm khỏe mạnh và vầng trán cao. Anh ấy có bề ngoài lạnh lùng, nhưng thật sự lại dễ bị khích động. Rõ ràng là anh ta đã tự rèn luyện mình như thế và cố giữ bình tĩnh trước mọi hoàn cảnh. Nhưng anh ta cứ suýt nữa là ngồi luôn lên cái mũ lụa rộng vành của mình, điều mà một người thật sự lạnh lùng chẳng bao giờ làm, và mỗi lần anh ta muốn giữ bình tĩnh, anh ta lại mân mê cái lưỡi dao mổ của mình trông ngộ nghĩnh đến nỗi mình cứ muốn cười phá lên. Anh ta nói với mình, Mina ạ, rất là thẳng thắn. Anh ấy nói mình thật là thân thiết với anh ấy như thế nào, và mặc dù anh ấy chỉ mới biết mình, nhưng nếu có mình bên cạnh thì đó sẽ là sự giúp đỡ và động viên rất quý báu trong cuộc đời của anh ấy. Anh ấy còn nói rằng sẽ thật bất hạnh nếu như mình không hề quan tâm đến anh ấy, rồi khi anh ấy thấy mình khóc, anh ấy nói rằng anh ấy thật là thô lỗ khi đem đến cho mình một sự phiền phức như vậy. Sau đó anh ta ngưng lại và hỏi xem mình có nhận lời hay không. Tay anh ấy run lên khi mình lắc đầu, và lưỡng lự một lát anh ấy hỏi mình xem mình đã có yêu ai khác chưa. Anh ấy nói thật lịch thiệp rằng anh ấy không hề muốn can thiệp vào chuyện riêng của mình, nhưng anh ấy muốn biết chỉ vì rằng khi mà trái tim người phụ nữ còn tự do thì người đàn ông vẩn còn hy vọng. Mina ơi, mình cảm thấy như đang có lỗi với anh ấy khi mình nói rằng mình đã có người yêu rồi. Mình chỉ nói thế thôi, rồi anh ấy đứng dậy. Anh ta rất rắn rỏi và can đảm nắm lấy cả hai tay mình và nói rằng anh ấy chúc mình hạnh phúc, và nếu khi nào mình cần một người bạn thì anh ta sẽ có mặt trong số những người tốt nhất.

Ôi Mina thân mến, mình chẳng thể nào cầm được nước mắt, và bạn hãy tha lỗi cho mình vì lá thư này thấm đẫm nước mắt của mình. Lời đề nghị đưa ra thật tử tế và chân thành, nhưng làm sao mà mình có thể vui khi nhìn thấy một người đàn ông thất vọng, người mà bạn biết đã yêu bạn chân thành, đang cất bước ra đi với một trái tim tan nát, người đã hiểu rằng, dù anh ấy có nói gì lúc này chăng nữa, thì bạn đã thật sự đi ra khỏi cuộc đời anh ấy rồi. Bạn thân mến ơi, mình phải ngừng lại một lúc thôi, mình thật sự đau khổ dù mình đang thật là hạnh phúc.

Buổi chiều tối.

Arthur vừa đi, và mình đã cảm thấy khá hơn so với lúc mình dừng bút, và mình có thể kể tiếp với bạn về cái ngày đặc biệt này.

Bạn thân mến ơi, thế là người số Hai đến sau bữa cơm trưa. Anh ta là một anh chàng Mỹ trẻ tuổi đẹp trai đến từ miền Texas. Anh ta trông trẻ và ngây thơ đến mức khó mà tin rằng anh ta đã từng sống ở nhiều nơi và trải qua nhiều chuyến phiêu lưu mạo hiểm. Mình thông cảm với Desdemona khi nàng cảm thấy như sét đánh ngang tai lúc chạm mặt với người đàn ông mặc đồ đen. Mình cho rằng phụ nữ chúng mình vốn nhút nhát, và mong muốn cưới người đàn ông có thể che chở, bảo bọc cho mình. Bây giờ nếu mình là đàn ông thì mình đã biết cách nào làm cho một cô gái yêu mình.Thật ra thì mình chẳng biết gì sất, bởi vì anh Morris đã kể cho chúng mình những câu chuyện về anh ta, còn Arthur thì chẳng hề nói gì cả…

Bạn thân mến, hình như mình hơi hấp tấp thì phải. Anh Quincy P.Morris đến lúc mình đang ở một mình. Đó là một anh chàng luôn tìm đến những cô gái đúng lúc họ cô đơn. Arthur thì chẳng bao giờ làm được như thế, dù anh ấy đã cố gắng gấp đôi để tìm một cơ hội, và mình thì ra sức giúp đỡ, mình chẳng xấu hổ khi thú nhận với bạn điều ấy đâu. Mình phải nói trước với bạn là anh Morris không phải lúc nào cũng nói tiếng lóng, anh ấy không hề nói thứ tiếng đó khi nói chuyện với những người lạ. Đó là một người có giáo dục tốt và có dáng vẻ bặt thiệp. Tuy nhiên anh ấy khám phá ra rằng mình thích nghe anh ấy nói chuyện bằng thứ tiếng lóng của Mỹ, nên khi có mặt mình và không ai tỏ ra khó chịu, thì anh ấy lại nói bằng cái thứ ngôn ngữ buồn cười ấy. Bạn thân mến, lúc đầu mình nghĩ rằng anh ấy sáng tác ra tất cả những thứ đó, bởi vì nó luôn luôn thích hợp một cách kỳ lạ với những gì anh ấy nói ra. Nhưng đó là cách mà người Mỹ nói lóng. Mình chẳng biết là có một lúc nào đó mình sẽ nói những thứ tiếng lóng đó ra hay không. Mình cũng chẳng biết là Arthur có thích nó không, nhưng chẳng bao giờ anh ấy dùng đến nó cả.

Thế đấy, anh Morris ngồi bên mình, nhìn mình với tất cả vẻ hạnh phúc và vui tươi mà anh ấy có thể tạo ra được, nhưng mình có thể thấy ngay rằng anh ta rất hồi hộp. Anh ấy nắm lấy tay mình, và nói thật ngọt ngào…

" Cô Lucy ơi, tôi biết rằng tôi thật ra cũng chẳng xứng làm một vật trang trí trên những chiếc giày của cô, nhưng tôi tin rằng nếu như cô đang đợi đến khi cô tìm thấy một người đàn ông xứng đáng thì cô sẽ mang đến cho bảy người phụ nữ trẻ khác niềm hy vọng nếu như cô từ bỏ ý định đó. Vậy sau cô không cùng tôi thắng chung một cỗ yên cương, cùng giật cương ngựa thả bước lang thang trên đường đời rộng mở?"

Ôi, với vẻ hóm hỉnh và tươi vui của anh ấy khiến cho việc đưa ra lời từ chối chỉ khó bằng một nữa so với khi làm điều ấy với bác sĩ Seward tội nghiệp. Với tất cả vẻ nhẹ nhàng của mình, mình nói rằng mình chẳng biết tí gì về việc giật cương ngựa cả, và vì thế mình sẽ làm gãy cỗ yên cương mất thôi. Đoạn anh ấy nói với một vẻ thật nhẹ nhàng rằng, vì đây là một sự kiện quá quan trọng cho anh ấy, và vì thế nếu anh ấy có làm điều đó một cách quá sỗ sàng, quá quan trọng, thì mình hãy tha lỗi cho anh ấy. Anh ấy tỏ ra rất nghiêm túc khi nói điều đó, và mình cảm thấy hân hoan vì anh ấy là người thứ Hai làm điều đó trong một ngày. Và bạn thân mến ơi, trước khi mình có thể thốt nên lời thì anh ấy bắt đầu đổ ập xuống đầu mình hàng lọat những cơn sóng chứa đầy những lời lẽ yêu đương, rằng anh ấy mang trái tim và tâm hồn của anh ấy đặt dưới chân mình. Anh ấy trông thật nghiêm chỉnh đến nỗi mình không bao giờ nghĩ rằng một con người luôn khôi hài lại có thể nghiêm chỉnh đến vậy, bởi vì lúc nào anh ấy trông cũng vui vẻ. Mình nghĩ rằng anh ấy đã nhìn thấy trên mặt mình điều gì đó ngăn trở anh ấy, vì vậy anh ta thình lình ngừng lại, và nói với vẻ nhiệt tình đầy nam tính rằng mình có thể sẽ yêu anh ấy nếu như lúc này mình vẩn còn tự do…

" Lucy, anh biết em là cô gái có trái tim trung thực. Anh sẽ không ở đây để nói với em như nãy giờ nếu như anh không tin rằng mình đã có thể hiểu được những nơi sâu thẳm trong tâm hồn em. Hãy nói với anh như một người trung thực nói với một người trung thực, rằng thật sự em đã có để ý đến ai chưa? Và nếu điều đó là sự thực thì anh sẽ không bao giờ quấy rầy em về điều này nữa, nhưng hãy để cho anh trở thành một người bạn thật trung thành của em, nếu như em cho phép điều đó."

Mina thân yêu của mình, vì sao những người đàn ông lại thật là cao thượng đến thế, trong khi phụ nữ chúng ta thật ra chưa hẳn đã hòan tòan xứng đáng với những điều đó? Những trái tim cao quý của những người đàn ông trung thực này đã khiến mình cảm thấy rất vui. Mình lại bật khóc nữa rồi, bạn thân mến ơi, mình e rằng lá thư này lại còn thấm đẫm nước mắt hơn lúc trước nữa đấy, và mình lại cảm thấy đau khổ vô cùng.

Vì sao người ta không cho phép một cô gái cưới ba người đàn ông, hoặc tất cả những người nào thật sự yêu cô ấy nhỉ? Nhưng điều này dị giáo quá, mình không được nói ra. Mình rất vui để kể lại cho bạn rằng, mặc dù đang đầm đìa nước mắt, mình vẩn có thể nhìn thẳng vào đôi mắt can đảm của anh Morris và trả lời anh ấy thật thẳng thắn…

"Vâng, em có yêu một người, dù anh ta chưa bao giờ nói là anh ấy yêu em." Mình thật là sáng suốt khi quyết định nói thật với anh ấy, bởi vì khi nghe thấy những điều ấy, mặt anh ấy bừng sáng, và hai tay anh ấy nắm lấy hai tay mình, thật ra thì mình nghĩ là mình đã đặt chúng vào tay anh ấy, và anh ta nói một cách nồng nhiệt…

" Đúng là cô gái dũng cảm của tôi. Dù sao thì có cơ hội để sau này có em vẩn tốt hơn là lãng phí thời gian với những cô gái khác trên thế giới. Đừng khóc, cô em thân mến của tôi. Với anh thì đây là một quả hạch khó đập vỏ đấy, nhưng anh chẳng lùi bước đâu. Còn cái tên kia, cái gã đang không biết là hắn đang có một niềm hạnh phúc như thế nào thì, hừ, tốt hơn là hắn nên biết điều đó cho sớm, nếu không thì hắn có công chuyện phải giải quyết với anh đấy. Cô gái nhỏ, em thật là tử tế và can đảm khi nhận anh là bạn, còn anh thì thích làm người yêu của em hơn, xem ra anh có vẻ ích kỷ quá nhỉ. Cô em thân yêu, anh sắp phải có một đoạn đường dài cô độc từ đây về thủ đô. Em có thể cho anh một nụ hôn được không? Nó sẽ làm cho bóng tối không còn bao phủ anh nữa. Em có thể làm điều đó mà, vì em cũng biết là người đàn ông tốt số kia vẩn còn chưa ngỏ lời và xem như em vẩn chưa thuộc về ai."

Vẻ dũng cảm và ngọt ngào của anh ấy đã chiến thắng mình, và còn thêm vào sự cao thượng của anh ta nữa, thật khó từ chối, phải không Mina? Và anh ấy trông thật buồn, buồn đến nỗi mình trườn người tới và hôn anh ấy.

Anh ấy đứng đó, giữ chặt tay mình, và nhìn sâu vào mặt mình. Mình e rằng lúc đó mình đã đỏ bừng mặt lên, anh ấy nói, " Cô gái nhỏ, anh đang cầm tay em, và em đã hôn anh. Nếu những điều này không khiến chúng ta trở thành bạn thì chẳng có điều gì có thể làm được điều đó cả. Cám ơn em vì sự tử tế êm đềm em đã dành cho anh, và tạm biệt." Anh ấy siết chặt tay mình, rồi nhặt lấy mũ, chẳng hề ngập ngừng, run rẩy hay nhỏ một giọt nước mắt, anh ấy đi ra mà không hề nhìn lại, còn mình thì khóc như một đứa trẻ.

Ôi, vì sao một người đàn ông như thế lại có thể không tìm thấy hạnh phúc khi mà có biết bao cô gái luôn ngưỡng mộ anh ta trên khắp các nẻo đường mà anh ấy đi qua? Mình ước mình là một cô gái tự do, nhưng chỉ vì mình không muốn làm một cô gái tự do. Bạn thân mến ơi, điều này làm bối rối quá, và mình cảm thấy mình không thể viết ngay lúc này về hạnh phúc của mình, sau khi đã kể với bạn về những chuyện vừa qua, và mình không muốn kể về người số Ba đến khi mình cảm thấy hòan tòan hạnh phúc. Mãi mãi yêu bạn… Lucy

T.B – Ồ, về cái người số Ba ấy, chắc mình chẳng cần phải nói với bạn về người số Ba phải không? Ngòai ra, tất cả thật là mù mờ. Hình như chỉ là trong một khỏanh khắc nào đó anh ấy vào phòng mình, hai tay anh ấy ôm lấy mình, và anh ấy hôn mình. Mình rất, rất là hạnh phúc, và mình không biết phải làm gì để xứng đáng với nó. Mình chỉ cố làm sao trong tương lai đừng tỏ ra vô ơn với Chúa vì tất cả những chuyện này. Chúa thật tốt với mình khi gửi đến cho mình một người yêu, người chồng và người bạn như thế.

Tạm biệt.

NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD (Thu trong máy quay dĩa)


Ngày 25 tháng 5:

Hôm nay lòng khao khát của tôi đã rút xuống như cơn sóng thủy triều. Không thể ăn được, không thể ngủ được, và thay và đó là đoạn nhật ký này. Sự từ chối dứt khóat mà tôi nhận được hôm qua đã khiến tâm hồn tôi trống rỗng. Chẳng có gì trên thế giới này còn có ý nghĩa để mà làm nữa. Và tôi biết rằng chỉ có một liều thuốc duy nhất có thể chữa được căn bệnh này, đó là làm việc, và tôi lại lao vào giữa đám bệnh nhân. Tôi lại tìm thấy một người bệnh khiến cho tôi cảm thấy thú vị. Anh ta có cái vẻ kỳ quặc khiến tôi quyết định phải cố gắng tìm hiểu ông ta. Tối nay có lẽ tôi đã tiến sâu hơn mọi khi vào trái tim bí ẩn của ông ta.

Tôi hỏi ông ta nhiều hơn mọi lần, và cảm thấy có vấn đề khi làm việc với những ảo giác của ông ta. Với cách làm của tôi trong trường hợp này, tôi cảm thấy có phần tàn nhẫn. Tôi đã giữ bệnh nhân của mình trong đỉnh điểm của những cơn điên của ông ta, cái điều mà tôi tránh làm với những bệnh nhân khác khi tôi cảm thấy đang ở ngưỡng cửa của địa ngục.

(Lạ thật, tại sao trong lần này tôi lại không tránh cái hố của địa ngục nhỉ?) Ommia Romae venalia sunt. Địa ngục cũng có cái giá của nó! Nếu như bên trong bản năng này có điều gì đó đáng giá cho một sự theo dõi xác đáng, thì tôi đang bắt đầu làm đây, vậy thì…

R.M, Renfield, 59 tuổi. Tính khí lạc quan, thể chất khỏe mạnh tuyệt vời, dễ bị kích động một cách bệnh hoạn bởi những chu kỳ buồn bã, chứa đựng bên trong những ý tưởng sâu thẳm mà tôi không thể hiểu được. Tôi giả sử rằng chính cái tính khí lạc quan kia đã tạo nên những sự xáo động nội tại dồn nén lại bên trong ý nghĩ, khiến cho một con người có thể trở thành nguy hiểm, trở nên nguy hiểm nếu như bên trong anh ta không có sự ích kỷ. Bên trong mỗi con người, sự ích kỷ sẽ giúp họ tạo thành một cái áo giáp giúp họ chống lại chính mình. Trong trường hợp này, tôi nghĩ rằng bản chất con người sẽ trở thành một điểm cân bằng cho các lực hướng tâm, tức những ý nghĩ ích kỷ triệt tiêu với những lực ly tâm, là những ý nghĩ cao thượng. Khi những điều cao thượng như bổn phận, lý tưởng v.v… là điểm cân bằng đó, thì những thứ lực ly tâm sẽ có tác dụng mạnh mẽ, mà chỉ một tai nạn bao gồm hàng chuỗi những tai nạn mới có thể cân bằng được với nó.


THƯ TỪ QUINCEY P.MORRIS GỬI CHO
HON. ARTHUR HOLMOOD
Ngày 25 tháng 5.

Art thân mến.

Chúng mình đã từng huyên thuyên đủ thứ chuyện bên những lán trại trên thảo nguyên, người này băng bó vết thương cho kẻ khác sau khi thử nhảy xuống dòng Marquesas, và uống mừng sức khỏe nhau bên bờ biển Titicaca. Sẽ có nhiều điều để mà huyên thuyên, rồi còn những vết thương khác để mà băng bó, nhiều thứ sức khỏe để uống mừng lắm. Sau cậu lại không đến chỗ trại của tớ vào tối mai nhỉ? Tớ chẳng ngại ngùng gì mà không mời cậu đến đâu, vì tớ biết chắc tối mai cô tiểu thư kia có lời mời đi ăn tối và cậu hoàn toàn tự do. Sẽ chẳng có thêm ai ngòai ông bạn cũ của chúng ta tại Triều Tiên, Jack Seward. Hắn cũng đến luôn, để hai chúng tớ trộn lẩn nước mắt của mình vào những cốc rượu vang, để uống mừng sức khỏe từ tận đáy lòng mình cho người đàn ông hạnh phúc nhất thế giới, người đã được Chúa ban cho trái tim cao thượng nhất và nhận được phần thưởng xứng đáng nhất. Chúng tớ hứa là cậu sẽ được đón tiếp nồng nhiệt, chào hỏi thân tình và sức khỏe của cậu sẽ được đảm bảo y như là nó được giữ chặt trên tay cậu. Cả hai chúng tớ xin thề là sẽ đưa cậu về nhà nếu cậu uống say đến mức mắt mở hết lên nổi. Nào, đến nhé!

Đã và mãi là bạn của cậu,

Quincey P.Morris


ĐIỆN TÍN TỪ ARTHUR HOLMWOOD GỬI CHO QUINCEY P.MORRIS
Ngày 26 tháng 5.

Đến chỗ tớ ngay. Tớ có chuyện sẽ làm cho cả hai tai cậu phát ù lên nếu nghe thấy. Art.
Về Đầu Trang Go down
Ku.Péo
Thành viên V.I.P
Thành viên V.I.P
Ku.Péo


Points : 745
Bạn được Thanks: : 1
Join date : 25/09/2009
Age : 30
Đến từ : Trung Quốc
Humor : Funny Face ^^

Ác quỉ Dracula - Chương 4,5,6 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác quỉ Dracula - Chương 4,5,6   Ác quỉ Dracula - Chương 4,5,6 Icon_minitime11/10/2009, 5:33 pm

Ác quỉ Dracula - Chương 6

NHẬT KÝ CỦA MINA MURRAY
Ngày 24 tháng 6. Whitby.

Lucy gặp tôi ở nhà ga, trông bạn ấy dễ thương và đáng yêu hơn bao giờ hết, và chúng tôi quay về những căn phòng ở Crescent. Nơi đây thật là đáng yêu. Con sông Esk nho nhỏ chảy qua vùng thung lũng sâu, rồi mở rộng ra khi đến gần cảng. Một cây cầu dài bắc ngang phía trên với những chân móng cao vút, khiến cho phong cảnh trải rộng ra hơn tầm vóc thực của nó. Thung lũng là cả một màu xanh tuyệt đẹp, và nó dốc đến nỗi khi bạn ở trên cao thì bạn có thể nhìn xuyên qua nó, trừ khi bạn ở quá gần để nhìn xuống. Những ngôi nhà ở thị trấn cổ nằm đối diện với chúng tôi đều lợp ngói đỏ, nằm san sát nhau giống như những bức tranh chúng tôi thấy ở Nuremberg. Nằm phía bên phải thị trấn là những tàn tích còn lại của tu viện Whitby, bị những người Đan Mạch bỏ hoang, và đó là một phần của giáo phái "Marmion", nơi mà tục đa thê khiến các cô gái sống chen chúc lẩn nhau. Đấy là một khu tàn tích nguy nga có tầm vóc khổng lồ, đầy rẫy những phong cảnh tráng lệ và diễm tình còn sót lại. Có truyền thuyết rằng người ta đã từng thấy một tiểu thư mặc đồ trắng giữa những khung cửa sổ của tu viện. Giữa nó và thị trấn là một nhà thờ khác nằm trong một khu xứ đạo, bao quanh bởi một nghĩa địa lớn đầy những ngôi mộ. Đối với tôi, đấy là nơi đẹp nhất của Whitby, nó nằm phía bên phải thị trấn, có thể nhìn tòan cảnh bến cảng và trông ra nơi mũi biển Kettleness vươn mình ra biển cả. Đường đi từ cảng xuống dốc đến nổi một phần đê rơi xuống, tiêu hủy mất một số ngôi mộ.

Một số ngôi một đá vươn ra đến tận con đường cát nằm xa phía dưới. Dọc con đường đi đi xuyên qua khu đất nhà thờ này người ta đặt những ghế đá, và lúc nào trong ngày cũng có người đến ngồi ở đấy thưởng thức cảnh đẹp và đón gió.

Tôi nhất định sẽ thường đến ngồi ở đấy và làm việc. Thật sự lúc này tôi đang ngồi đây, sách trên đầu gối, và lắng nghe ba người đàn ông lớn tuổi ngồi cạnh tôi nói chuyện. Hình như họ chẳng có gì làm, nên họ suốt ngày ngồi đây và tán gẫu suốt.

Hải cảng nằm phía dưới tôi. Nằm ở phía xa là một bức tường dài bằng đá granit vươn thẳng ra biển, kết thúc bằng một đường cong, bao bọc giữa chúng là một ngọn hải đăng. Một bức tường khác chạy dài ra khỏi nó. Ở phía bên này,một bức tường khác tạo thành một đường gãy khúc chạy về phía ngược lại, và cũng tận cùng là một ngọn hải đăng khác.Nằm giữa hai bức tường chắn là một lối đi hẹp dẩn vào cảng, thường được mở ra đột ngột.

Khi thủy triều lên thì phong cảnh thật là đẹp, nhưng khi thủy triều xuống thì nó cuốn sạch mọi thứ trên dãi cát ngầm, chỉ còn dòng chảy của con sông Esk chảy len lỏi giữa những mỏm đá. Nằm bên ngòai cảng theo hướng này là một dãi đá ngầm nhô cao khỏang nữa dặm, chạy thẳng ra từ phía sau ngọn hải đăng phía nam. Tận cùng của nó là một cái phao treo cùng với một cái chuông. Khi nào thời tiết xấu, nó lại ngân lên những âm thanh buồn bã được gửi đi muôn phương theo tiếng gió thỏang.

Có truyền thuyết rằng khi có một con tàu bị đắm tiếng chuông sẽ ngân vang lên giữa biển. Tôi phải hỏi người đàn ông già về chuyện này mới được. Ông ta đang đến kia…

Đấy là một ông già vui tính. Ông ấy hẳn là phải già lắm rồi. Da mặt ông ấy lấm tấm và xương xẩu như vỏ cây. Ông ấy bảo rằng ông ấy đã gần trăm tuổi, khi xưa, khi mà Waterloo được tìm thấy, ông là một thủy thủ nằm trong đội thuyền đánh cá Greenland. Tôi nghĩ rằng ông ấy là một người rất hay hòai nghi, khi tôi hỏi về những tiếng chuông vang trên biển và về Tiểu Thư Áo Trắng, ông ta trả lời khá cộc cằn,

" Tôi chẳng quan tâm gì đến những chuyện ấy, thưa cô. Những chuyện như thế đã bị quên lãng sạch rồi. Tôi không nói là chúng chưa bao giờ xảy ra, nhưng tôi nói là chúng không phải xảy ra ở thời của tôi. Chúng hấp dẩn những khách du lịch, những kẻ vi hành, những bọn đại loại như vậy, chứ không phải cho một tiểu thư trẻ trung xinh đẹp như cô. Cái lũ lang thang từ York và Leed đến đây để ăn cá trích chữa bệnh và uống trà thì luôn trông ngóng những câu chuyện rẻ tiền như vậy bởi tính tin dị đoan của chúng. Tôi không biết là những tên nào đã kể lếu láo với chúng, thậm chí còn đăng trên báo nữa, tòan là những chuyện nhảm nhí."

Tôi nghĩ rằng người đàn ông này là một người thú vị, có thể học tập được nhiều, vì vậy tôi đề nghị ông ấy kể lại cho tôi nghe về công việc đánh cá voi vào những ngày xa xưa. Ông ấy đang chuẩn bị nói thì chuông đồng hồ điểm sáu tiếng, rồi thì ông nặng nhọc đứng dậy và nói,

" Tôi phải rút về nhà ngay, thưa cô. Cháu gái của tôi không thích đợi khi bữa trà đã sẳn sàng. Từ đây về nhà còn xa, và nếu về muộn thì tôi sẽ hụt ăn mất, thưa cô."

Ông ta tập tễnh bước đi. Tôi thấy ông ta đang vội vã đi nhanh hết sức mình xuống những bậc thang. Những bậc thang này là một nét đặc biệt của vùng đất này. Nó dẩn từ thị trấn đến nhà thờ, có đến hàng trăm bậc, tôi chẳng thể đếm xuể. Chúng tạo thành những đường uốn lượn thanh nhã, khiến những chỗ dốc trở nên dễ đi đến nỗi ngựa có thể lên xuống dễ dàng. Tôi nghĩ chắc là chúng được xây dựng cùng lúc với tu viện. Tôi cũng sẽ về nhà vậy. Lucy đi thăm mẹ bạn ấy rồi, và họ chắc có chuyện riêng để tâm sự, tôi hẳn là không nên đi.
Ngày 1 tháng 7

Tôi đã đến đây cả giờ với Lucy, và có một cuộc nói chuyện thú vị với ông bạn già của tôi và hai người khác luôn nhập bọn với ông. Ông ta rõ ràng là thủ lĩnh của nhóm, và tôi nghĩ rằng lúc thịnh thời hẳn ông này là một tay độc tài cực kỳ.

Ông ta chẳng đồng ý với cái gì cả, và luôn gây sự với mọi người. Nếu cãi lý không thắng, ông ta bèn giở trò át giọng và bắt mọi người phải im lặng đồng ý với ông.

Lucy trông thật là đẹp trong chiếc váy trắng. Cứ nhìn thấy bạn ấy là người ta lại trông thấy những sắc màu tươi tắn.

Tôi thấy ngay là những ông già kia lập tức tiến tới và ngồi sát vào Lucy khi chúng tôi ngồi xuống. Bạn ấy tỏ ra rất thân mật với họ, còn họ thì có cảm tình với bạn ấy ngay tức khắc. Thậm chí ông bạn già ương ngạnh của tôi cũng chẳng hề tranh cãi gì với Lucy, và tôi tất nhiên cũng được chia xẻ mối cảm tình ấy. Tôi lại gợi chuyện về những truyền thuyết xưa, và ông ấy bắt đầu huyên thuyên. Tôi phải cố nhớ để ghi lại.

" Tất cả chỉ là những chuyện nhảm nhí, nhăng cuội, tào lao cả. Tất cả những cái mớ ma quỷ, phù thủy, bọn người độc ác gì đó chỉ dùng để dọa trẻ con hay những phụ nữ yếu bóng vía mà thôi. Tất cả những cái lũ ma quỷ, với những dấu hiệu, những lời cảnh cáo của chúng đều được sáng chế ra bởi những kẻ vô công rồi nghề, những tên bịp bợm muốn mọi người làm theo ý chúng. Tôi rất ghét cái lũ đó. Vì sao mà những cái điều chẳng hề được viết lại thành văn và truyền giảng bởi các giáo sĩ lại muốn được khắc lại trên các ngôi mộ thế kia? Cô hãy nhìn chung quanh đi. Tất cả những ngôi mộ kia, kiêu hãnh đưa ra những giá trị mà bản thân chúng không hề có, và sau đó thì ngã lộn nhào bởi sức nặng của những điều giả dối được khắc trên chúng. 'Nơi đây yên nghỉ' hay là 'Mãi mãi ghi nhớ' là những câu được khắc trên đó, nhưng gần một nữa trong số chúng chẳng chôn người nào bên dưới cả, và ký ức về chúng chỉ còn lại như ngọn nến leo lét gần tắt mà thôi. Tất cả đều là giả dối, ở khía cạnh này hoặc khía cạnh khác, giả dối tất. Lạy Chúa, rồi đến cái Ngày Phán Xét thì ai nấy sẽ có cái áo quan của mình, rồi lại khắc lên tấm bia mộ những lời hoa mỹ, trong khi đó thì thật sự thì họ run rẩy, tuyệt vọng rồi chìm đắm ở đâu đó ngòai biển khơi, nơi mà chẳng bao giờ họ có một cái gì chứa đựng họ cả."

Tôi có thể nhận thấy là người đàn ông già nọ tỏ ra rất tự mãn về bầu không khí mà ông gây ra, ông nhìn quanh để tận hưởng sự tán thành của những người bạn nối khố của mình về những gì mà ông nói, còn tôi thì lúi húi ghi chép lại chúng.

"Oh, ông Swales, không thể như lời ông nói được. Chẳng lẽ những ngôi mộ kia lại là giả hay sao?"

"Yabblins! Cái một số là thật, là nơi chôn cất những người tốt, những người không bị biển cả nuốt chửng. Còn lại tòan là giả dối cả. Nào hãy đến đây. Cô là một người lạ, và cô hãy thử nhìn khu nghĩa địa này."

Tôi gật đầu, vì tôi nghĩ tốt nhất là tôi đang đồng ý. Cái thứ thổ ngữ của ông già này thật là khó hiểu. Hình như là ở khu nghĩa địa này có cái gì đó không bình thường thì phải.

Ông ta tiếp tục, "Và cô nghĩ rằng tất cả những phiến đá này đều thật sự che phủ cho những con người ư?" Tôi gật đầu. "Đều là giả dối sạch. Đó là những thứ được dựng nên vào cái ngày thứ Sáu đen tối."

Ông ta thúc vào một trong những người bạn mình, và cả ba cười phá lên. "Ôi, Chúa ơi! Thật ra những người này là như thế nào? Hãy nhìn thử cái này xem, đọc những gì khắc trên mộ ấy!"

Tôi đến gần và đọc, "Edward Spenceland, thủy thủ trưởng, bị cướp biển giết trên bờ biển Andres, tháng Tư 1854, 30 tuổi." Và khi tôi quay lại, ông Swales nói tiếp,

"Tôi tự hỏi là ai đã mang ông ta về đây, để chôn cất nơi đây? Trong khi bị giết ở bờ biển Andres! Và cô tin là thi hài của ông ấy nằm đó! A, tôi còn có thể kể tên hàng tá những bộ xương khác đang nằm trên vùng biển Greenland đó," ông ta chỉ về hướng bắc, "hoặc những dòng chảy khác đã cuốn trôi chúng đi. Và chỉ còn có những tấm bia đá nơi đây. Với đôi mắt trẻ trung của mình, cô có thể nhìn thấy những dòng chữ giả dối khác được khắc quanh đây. Kia là Braithwaite Lowery, tôi biết cha hắn, chết ở Lively off Greenland vào năm 20, hoặc Andrew Woodhouse, chết đuối cùng nơi vào năm 1777, hoặc John Paxton, chết đuối ở Mũi Tạm Biệt vào năm sau, rồi John Rawling, ông hắn đi biển với tôi, chết đuối ở Vịnh Phần Lan năm 50. Cô có nghĩ là tất cả những người này sẽ quay về Whitby khi tiếng kèn trumpet cất lên không? Chắc là họ sẽ chen chúc nhau trên một tảng băng trôi miền bắc trong khi chúng tôi ở trên một tảng băng khác từ sáng đến tối, cố buộc lại những kênh đào của chúng tôi bằng ánh bình minh phương bắc." Chắc đây là một cách nói khôi hài của dân địa phương, nên tôi thấy người đàn ông già cười khúc khích, trong khi các bạn ông ta hưởng ứng với vẻ thích thú.

"Nhưng," tôi nói, "hình như ông nói chưa đúng lắm. Ông bắt đầu bằng cách cho rằng những người đáng thương kia, hoặc là linh hồn của họ, được chôn cất và khắc tên trên bia đá vào Ngày Phán Xét. Điều này làm sao xảy ra được?"

"Ờ, những tấm bia đá kia được khắc lên làm gì? Trả lời tôi đi, thưa cô!"

"Để an ủi những người thân của họ, tôi nghĩ thế."
"Để an ủi những người thân của họ, cô nghĩ thế!" ông ta nói với sự khinh miệt rõ rệt. "Làm sao có thể an ủi những người thân của họ với sự giả dối được viết trên đây, trong khi tất cả mọi người dân trong vùng đều biết rằng chúng là những lời dối trá?"

Ông ta chỉ về phía một bia đá đã đổ sập xuống, tạo thành một nơi nghĩ chân nằm gần một mũi đá nhô ra biển. "Hãy đọc những lời dối trá trên tấm bia đá này," ông ta nói.

Những chữ khắc trên bia đá nằm ở phía bên kia so với chỗ tôi ngồi, nhưng Lucy ngồi ở hướng đối diện, bạn ấy chồm tới và đọc, "Đời đời tưởng nhớ George Canon, chết ngày 29 tháng Sáu năm 1873 do rơi từ mũi đá Kettleness với niềm hy vọng sẽ hồi sinh trong vinh quang. Ngôi mộ được lập nên bởi một người mẹ đau khổ cho đứa con trai yêu thương thân thiết của bà. 'Anh ta là đứa con trai duy nhất của bà, và bà là một góa phụ.' Ông Swales, tôi thật sự chẳng thấy có gì đáng cười ở đây cả!" Bạn ấy nói với một vẻ dũng cảm và nghiêm khắc.

"Cô chẳng thấy gì buồn cười à! Ha – ha! Nhưng cũng chỉ vì cô không biết rằng người mẹ đau buồn kia là một con mèo dưới địa ngục luôn căm ghét đứa con trai bởi vì anh ta sống quá chuẩn mực, còn anh con trai thì ghét mẹ đến nỗi quyết định tự tử để bà ta không thể lãnh được số tiền bảo hiểm mà bà ta đã đóng cho mạng sống của anh ta. Anh ta đã bắn vào đầu mình bằng một cây súng hỏa mai cũ, nó để lại một cái dấu toang hoác trên đầu anh ta. Đó là cái cách mà anh ta rơi xuống từ mõm đá. Và còn cái gọi là phục sinh trong vinh quang nữa chứ. Tôi thường nghe anh con trai nói với tôi khi nó còn sống là hắn hy vọng sẽ được xuống địa ngục, bởi vì mẹ hắn ngoan đạo như vậy chắc hẳn sẽ được lên đến thiên đường, và hắn hoàn toàn không muốn lẩn quẩn ở bất kỳ nơi nào có mẹ hắn. Chẳng lẽ lời khắc trên đá "anh ta đã đóng đinh bằng một cây gậy như lời anh ta nói" là sai hay sao? Gabriel, người đã liệm George đã phải cân nhắc vô cùng về lời ghi trên mộ đá của anh ta, hãy hỏi hắn nếu cần bằng chứng."

Tôi không biết phải nói gì thêm, nhưng Lucy quay lại cuộc hội thoại ngay, bạn ấy cao giọng, "Ô, vì sao lại nói với chúng tôi điều này? Đây là chỗ ngồi ưa thích của tôi, và tôi không thể xa rời nó được, còn bây giờ thì tôi biết là tôi phải ngồi bên mộ của một người tự sát rồi."

"Điều đó sẽ chẳng có hại gì cho con đâu, con gái của ta, và điều này có thể làm cho Geordie tội nghiệp cảm thấy được an ủi khi có một thiếu nữ xinh đẹp ngồi ghé bên. Nó chẳng có hại gì cho con cả. Ta đã ngồi ở đây gần hai mươi năm, và có gì phiền tóai đến cho ta đâu. Đừng bận tâm xem những lời khắc kia có phải là những lời nói dối hay không? Nó sẽ để lại cho con những kỷ niệm khi một ngày nào đó những ngôi mộ này dời đi, và chung quanh đây trở nên xơ xác như một đám ruộng trơ rạ. Đã đến giờ rồi, ta phải đi thôi. Sẳn sàng phục vụ các cô, các tiểu thư!" Và ông ta khập khiễng bước đi.

Lucy và tôi ngồi lại thêm một lát, và cảnh đẹp trải rộng trước mặt khiến chúng tôi bồi hồi nắm chặt tay nhau. Lucy kể lại lần nữa về Arthur và đám cưới sắp đến của họ. Điều này làm tim tôi đau nhói, bởi vì tôi chưa có tin tức gì về Jonathan suốt cả tháng nay cả.

Cùng ngày hôm đó, tôi quay lại đây, cô đơn và buồn bã. Chẳng có lá thư nào cho tôi cả. Tôi hy vọng là anh Jonathan chẳng gặp chuyện gì. Đồng hồ đã điểm chín giờ. Ánh đèn tỏa lan trong thành phố, chạy thành hàng theo những con đường, và sáng lên đơn độc ở một đôi chỗ. Nó chạy dọc phía bên phải dòng Esk và chấm dứt chỗ đường cong dẩn vào thung lũng. Ở bên trái tôi cắt ngang bởi một vệt đen tạo ra bởi ngồi nhà cổ nằm cạnh bên tu viện. Bầy cừu kêu buồn ở những cánh đồng phía sau tôi, có tiếng vó lừa lóc cóc ở con đường lát gạch phía dưới. Ban nhạc phía trên móng cầu chơi một điệu valse êm ả, và phía xa trên bờ ke là một đạo quân Salvation đang tập hợp ở con đường phía sau. Cả hai phía đều chẳng thấy nhau nhưng ở đây tôi thấy và nghe được cả hai. Tôi không biết bây giờ anh Jonathan đang ở đâu, và anh ấy có đang nghĩ về tôi hay không! Ước gì anh ấy ở đây với tôi.

NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD

Ngày 5 tháng 6. – Càng nghiên cứu trường hợp về Renfield tôi càng thích thú khi hiểu thêm về người đàn ông này. Ông ấy ngày càng lộ rõ tính ích kỷ, bí ẩn và có một mục đích xác định.

Tôi muốn biết về vấn đề sau này thật rõ. Ông ta hình như có một thời khóa biểu riêng mà tôi chẳng thể biết được. Ông ta bù lại có một tình yêu với thú vật, mặc dù đôi khi ông ta tỏ ra rất tò mò khiến tôi cho rằng ông ta chỉ là một kẻ độc ác khác thường. Những con thú nuôi của ông ta là những con vật dị thường.

Bây giờ thì sở thích của ông ta là bắt ruồi. Cái sở thích kỳ quặc này khiến tôi buộc phải thắc mắc. Tôi kinh ngạc khi thấy ông ta chẳng hề nổi giận như tôi tưởng, mà lại có một dáng vẻ nghiêm túc khi trả lời. Ông ta nghĩ một lúc, đoạn nói, " Cho tôi ba ngày? Tôi sẽ giũ sạch chúng." Tất nhiên, tôi chấp nhận. Tôi phải chú ý đến ông ta.

Ngày 18 tháng 8. – Bây giờ thì ông ấy quay sang bắt nhện, và bỏ những con thật lớn vào trong hộp. Ông ta nuôi nhện bằng những con ruồi của ông ấy, và số lượng ruồi ông ta có được giảm đi đáng kể, mặc dù ông ta cố quyến rũ chúng bằng phân nữa số thức ăn ông ta có.

Ngày 1 tháng 7. – Số nhện của ông ta đã trở nên nhiều đến nỗi khiến lòai ruồi trong phòng gần tuyệt chủng, và tôi nói với ông ta rằng cần phải dẹp bỏ bọn nhện đi.

Ông ta trông có vẻ rất buồn bã, nên tôi nói rằng ông ta có thể giữ lại một số trong bọn chúng. Ông ta vui mừng với sự cho phép này, và tôi cho ông ta một số thời gian để lựa chọn.

Ông ta làm tôi vô cùng ghê tởm, khi mà dùng những thứ thức ăn thối rửa để thu hút bọn ruồi nhặng dơ dáy. Chúng bay vo ve đầy phòng, ông ta bắt lấy chúng, vui mừng vân vê chúng giữa hai ngón tay, và trước khi tôi hiểu ra ông ta định làm gì, ông ta bỏ chúng và miệng và ăn chúng.

Tôi la rầy ông ta về chuyện này, nhưng ông ta tranh cãi một cách mềm mỏng rằng chúng rất ngon và vô hại, chúng rất có lợi cho sức khỏe và mang lại cuộc sống cho ông ta. Điều này làm tôi nảy ra một ý nghĩ, một suy nghĩ tiền đề. Tôi phải theo dõi xem ông ta làm cách nào mà giũ bỏ bọn nhện.

Ông ta rõ ràng là có một điều gì ám ảnh sâu trong tâm hồn, vì ông ta có bên mình một cuốn sổ tay, ông ta thường ghi chép vội vã vào đó. Có trang thì ông ta vẽ đầy những con số được xếp thành dãy, tổng số của chúng lại được xếp thành từng dãy khác, và ông ta chăm chú tính tóan như một kế tóan viên thực thụ.

Ngày 8 tháng 7. - Lại có một trò điên của ông ta, và cái ý tưởng phôi thai trong tôi đang định hình dần. Nó sẽ trở thành một ý nghĩ tòan vẹn sớm thôi, đó là một hoạt động không ý thức của não.

Tôi tránh mặt bạn bè vài ngày để quan sát mọi sự thay đổi có thể diễn ra. Chẳng có gì mới, ngoại trừ việc ông ta chia tay với một số con vật thân thiết của mình và bắt thêm một số mới.

Ông ta cố gắng bắt được một con chim sẻ và ra sức thuần hóa nó. Quá trình thuần hóa của ông ta dẩn đến một kết quả đơn giản là giảm bớt số nhện đi. Tuy nhiên số còn lại vẩn cần phải ăn, và ông ta lại tiếp tục dùng thức ăn của mình để quyến rũ lòai ruồi.

Ngày 19 tháng 7. – Chúng ta lại có sự tiến bộ mới đây. Ông bạn của tôi đã có được một tập đoàn chim sẻ, còn lũ ruồi và nhện thì đã gần như tiêu ma hoàn toàn. Khi tôi đến ông ta chạy ào đến chỗ tôi và nói rằng ông ta muốn yêu cầu tôi một đặc ân, một đặc ân rất quan trọng. Và trong khi nói, ông ta xun xoe chung quanh tôi như một con chó.

Tôi hỏi ông ta xem đặc ân đó là gì, và ông ta nói với dáng vẻ và giọng điệu đầy hí hửng, "Một con mèo con, một con mèo con khỏe mạnh, dễ thương để tôi chơi với nó, và cho nó ăn, cho nó ăn, cho nó ăn!"

Tôi chưa chuẩn bị cho một yêu cầu như vậy, nhưng chẳng khó để nhận ra rằng cái lũ vật nuôi của ông ta ngày càng gia tăng về kích cỡ và sự tiến hóa, và tôi không dám chắc là cái bầy sẻ được thuần dưỡng của ông ta rồi sẽ được biến đi cùng một cách với lũ ruồi và nhện hay không. Vì vậy tôi hỏi xem vì sao ông ta không chọn một con mèo lớn thay cho một chú mèo con.
Sự hăm hở của ông ta đã phản bội lại ông khi ông trả lời, "Ồ, vâng, tôi thích một con mèo! Tôi chỉ xin một con mèo con vì ngài có thể từ chối tôi một chú mèo lớn. Tôi sẽ có một con mèo con chứ ạ?"

Tôi lắc đầu, và nói rằng hiện giờ thì tôi e rằng điều đó là chưa được, nhưng tôi sẽ xem xét nó. Khuôn mặt ông ta xịu xuống, và tôi có thể thấy những nét đe dọa và nguy hiểm bên trong nó, manh nha một ý định giết người. Con người có một bản năng điên dại giết người tiềm ẩn trong mình. Tôi sẽ kiểm tra ông ta qua yêu cầu mà ông vừa đưa ra và xem mọi chuyện diễn tiến như thế nào, tôi sẽ biết rõ thêm.

Mười giờ tối. - Tôi thăm ông ta lần nữa và thấy ông ta đang ngồi ngẫm nghĩ ở một góc phòng. Khi tôi đến, ông ta quỳ sụp xuống trên đầu gối và khẩn nài ông ta cho ông một con mèo, rằng sự cứu rỗi của ông ta phụ thuộc vào đó.

Tuy nhiên tôi rất cương quyết nói rằng yêu cầu này là không thể giải quyết được. Vậy là ông ta không nói thêm nữa lời, quay về góc của mình và gặm ngón tay. Tôi sẽ gặp lại ông ta vào sáng sớm mai.

Ngày 20 tháng 7. – Tôi đến thăm Renfield rất sớm, trước khi những người chăm sóc mang ông ta đi dạo. Tôi thấy ông ta đang ư ử một giai điệu vo ve. Ông ta ve vẩy cục đường mà ông ta còn để dành được ra ngòai cửa sổ, với một ý định rõ ràng là tái lập lại cái trò bắt ruồi, với một sự khởi đầu đầy hứng khởi và khéo léo.

Tôi nhìn quanh tìm những con chim của ông ta, nhưng chẳng thấy đâu. Tôi bèn hỏi ông ta xem chúng đâu. Ông ta trả lời mà chẳng buồn quay lại rằng chúng đã bay mất rồi. Có một đám lông vũ vung vãi trong phòng, máu rỏ ra từ cái xích của ông ta. Tôi không nói gì thêm, quay ra dặn người coi giữ phòng phải báo cáo ngay với tôi tất cả những gì lạ lùng xảy đến với ông ta trong ngày.

11 giờ sáng. – Người chăm sóc phòng vừa đến nói rằng Renfield đang bệnh và ông ta nôn ra tòan lông chim. "Thưa bác sĩ, tôi tin rằng ," anh ta nói, "ông ta đã ăn những con chim của mình. Ông ta đã bắt và ăn sống chúng."

11 giờ tối. – Tôi cho Renfield uống một liều thuốc ngủ mạnh khiến ông ta nằm mê đi, rồi lấy cuốn sổ trong túi ông ta ra để đọc. Những điều thắc mắc lẩn quẩn trong đầu tôi đã được giải đáp, những lý thuyết của tôi đã được chứng minh.

Tôi gặp một trường hợp bản năng cuồng sát đặc biệt. Tôi nghĩ ra một cách giải thích khác cho trường hợp của ông ta, mà tôi gọi là sự cuồng ăn thịt (thịt sống). Cái mà ông ta muốn là hút càng nhiều sự sống vào người càng tốt. Ông ta cho một con nhện ăn nhiều con ruồi, một con chim ăn nhiều con nhện, rồi ông ta muốn một con mèo ăn nhiều con chim. Tiếp theo ông ta sẽ muốn tới cái gì đây?

Cái giá phải trả để hòan tất những kinh nghiệm này cũng đáng lắm chứ. Nó sẽ hòan thành nếu như nó có được một nguyên nhân chính đáng. Lòai người đã từng chế nhạo việc mổ xẻ, nhưng hãy nhìn những thành tựu mà công việc này đem lại ngày nay! Vì sao sự phát triển của khoa học luôn gặp phải những khó khăn và thách đố vì những định kiến từ đầu óc con người?

Nếu tôi nắm được bí mật này, tôi sẽ biết được điều cốt yếu để đi sâu vào tâm hồn những người mất trí, tôi sẽ có những sự đóng góp đáng giá vào khoa học để so sánh với nhà sinh lý học Burdon – Sanderson hoặc thiên tài Ferrier. Nếu như nó có được một nguyên nhân chính đáng! Đừng nghĩ nhiều về nó, hoặc là tôi sẽ làm cho mình trở nên kích động mất. Một điều khiến tôi bình tâm, đó là tôi không phải là một người có tài năng đặc biệt bẩm sinh.

Sự suy luận của con người thật tuyệt vời. Những người mất trí luôn sống trong một thế giới riêng của họ. Không hiểu người đàn ông này đánh giá một con người bằng với bao nhiêu sự sống, hay chỉ bằng một thôi. Ông ta đã gần tính chính xác được rồi, và hôm nay ông ấy lại bắt đầu một bản ghi mới. Ai trong số chúng ta đã bắt đầu nghiên cứu mỗi ngày để tính tóan về sự sống của chính chúng ta.

Tối qua cuộc sống của tôi đã gần như kết thúc đối với tôi và tôi thật sự đang bắt đầu tính tóan lại cho mình một cuộc sống mất. Nó sẽ tiếp tục cho đến khi Quan Tòa Vĩ Đại cộng hết tất cả lại cho tôi trong một con tính cuối cùng, cân bằng lại cho tôi những lợi nhuận và mất mát của tôi.

Ôi, Lucy, anh không thể giận em, cũng như không thể giận bạn mình, người đang hạnh phúc cùng em. Nhưng anh chỉ có thể đợi chờ trong hy vọng và làm việc. Làm việc! Làm việc!

Nếu như tôi có thể mạnh mẽ được như người bạn mất trí tội nghiệp của tôi nhỉ, với một lý do tốt đẹp, không vị kỷ để làm công việc của tôi. Đó sẽ là điều hạnh phúc thật sự.
NHẬT KÝ CỦA MINA MURRAY

Ngày 26 tháng 7. – Tôi thật là lo âu, và chỉ có thể xoa dịu bằng cách tự kể với mình bằng những trang nhật ký này. Điều đó giống như một người tự thì thầm và lắng nghe chính mình cùng lúc. Và đó cũng là lý do tôi dùng những ký hiệu viết tắt, nó gây ra cảm giác khác biệt so với chữ viết thường. Tôi không vui về Lucy và Jonathan. Tôi chẳng có tin tức gì về anh Jonathan thời gian qua, và rất lo lắng. Nhưng hôm qua ngài Hawkins đáng mến, người luôn luôn tỏ ra tốt bụng, đã chuyển cho tôi bức thư của anh ấy. Tôi đã viết thư hỏi thăm anh ấy, anh ấy trả lời là đã nhận được thư. Và chỉ có một hàng đề ngày tháng từ Lâu đài Dracula , báo tin anh ấy đang bắt đầu trở về nhà. Chẳng giống Jonathan tí nào. Tôi hoàn toàn không hiểu gì, và điều này làm tôi bất an.

Lại còn Lucy nữa. Mặc dù bạn ấy vẩn khỏe, nhưng dạo gần đây bệnh mộng du của bạn ấy bắt đầu quay trở lại. Mẹ bạn ấy có bàn về chuyện này với tôi, và chúng tôi quyết định rằng tôi sẽ khóa cửa phòng chúng tôi mỗi tối.

Bà Westenra có cho tôi biết là những người mộng du hay đi trên mái nhà, đi dọc theo những cạnh đá. Thình lình họ tỉnh giấc và rơi xuống với những tiếng kêu thảng thốt làm vang động chung quanh.

Bà mẹ tội nghiệp tất nhiên là rất lo lắng cho Lucy. Bà ấy nói với tôi là chồng bà, tức cha Lucy, cũng có thói quen như vậy. Ông ấy thức giấc vào nữa đêm, tự thay quần áo và đi ra ngòai nếu không ai đánh thức dậy.

Lucy sẽ cưới vào mùa thu, và bạn ấy đang chuẩn bị quần áo và nhà cửa của mình. Tôi thông cảm với bạn ấy, tôi cũng sẽ làm như vậy nếu tôi là bạn ấy.Chỉ có điều tôi và anh Jonathan sẽ sống một cuộc sống đơn giản, và sẽ cố hòa hợp hai lối sống với nhau.

Anh Holmwood, anh ấy tên là Hon. Arthur Holmwood, là con trai duy nhất của ngài Godalming, thỉnh thỏang lại đến, ngay khi anh ấy có thể rời thị trấn được, vì cha anh ấy không được khỏe. Tôi thấy Lucy luôn khắc khỏai chờ anh ấy đến.

Bạn ấy luôn muốn ngồi cùng anh ấy trên khu đất nhà thờ, chỉ cho anh ấy cảnh đẹp miền Whitby. Tôi dám chắc là sự chờ đợi làm bạn ấy rối tung lên, và bạn ấy trở lại bình thường khi anh ấy đến chơi.

Ngày 27 tháng 7. – Chẳng có tin tức gì của anh Jonathan. Tôi cảm thấy vô cùng lo lắng cho anh, nhưng tôi chẳng biết phải làm gì. Ước gì anh ấy viết cho tôi, dù chỉ một hàng.

Lucy lại càng hay mộng du, mỗi đêm tôi đều bị đánh thức bởi tiếng chân bạn ấy lang thang khắp phòng. May là dạo này trời nóng nên bạn ấy không bị nhiễm lạnh. Nhưng sự xáo động liên tục ấy rốt cuộc đã ảnh hưởng đến tôi, tôi trở nên căng thẳng và mất ngủ. Tạ ơn Chúa, sức khỏe của Lucy vẩn ổn. Anh Holmwood vừa đột ngột được gọi về gặp mặt cha, vì ông ấy yếu đi nhiều. Lucy cáu kỉnh vì bị chia cắt, nhưng không để lộ điều ấy ra mặt. Bạn ấy cố đùa cợt, và má bạn ấy đỏ hồng lên thật đáng yêu. Bạn ấy không còn xanh xao nữa. Tôi mong sao điều ấy diễn ra mãi.

Ngày 3 tháng 8. – Lại một tuần nữa trôi qua, và chẳng có tin tức gì về anh Jonathan, hay thậm chí là từ ông Hawkin, người tôi đang nóng lòng chờ đợi. Ôi, tôi mong sao anh ấy đừng ngã bệnh. Anh ấy phải nên viết cái gì cho tôi chứ. Tôi xem lại bức thư cuối cùng của anh ấy, nhưng nó chẳng làm tôi thỏa mãn. Nó không giống cách anh ấy viết, dù là nét chữ của anh ấy. Không thể sai lầm được.

Trong tuần này Lucy không mộng du nhiều như trước, nhưng bạn ấy có cái vẻ quan tâm là lạ nào đó mà tôi không hiểu, hình như ngay trong khi ngủ bạn ấy cũng theo dõi tôi. Bạn ấy thử mở cửa, và khi thấy cửa khóa thì bạn ấy lùng sục trong phòng để tìm chìa khóa.

Ngày 6 tháng 8. – Lại ba ngày nữa trôi qua, và chẳng có tin tức gì. Khỏang thời gian chờ đợi này thật là chết người. Chỉ cần biết một nơi nào đó để viết vài chữ hay để đi đến, tôi sẽ cảm thấy dễ chịu hơn. Nhưng chẳng ai biết gì thêm về Jonathan kể từ lá thư cuối cùng của anh ấy. Tôi chỉ còn biết cầu Chúa để giúp mình kiên nhẫn hơn.

Lucy trở nên kích động hơn, nhưng ngòai ra mọi thứ đều tốt đẹp. Đêm hôm qua tiết trời có vẻ là lạ, và những người đánh cá nói rằng sắp có một cơn bão ập đến chỗ chúng tôi. Tôi phải học cách quan sát và đóan nhận từ những dấu hiệu do thời tiết mang lại mới được.

Ngày hôm nay thật là u ám, và khi tôi viết những dòng này thì mặt trời đã ẩn vào những đám mây dày che phủ miền Kettleness. Mọi thứ đều u ám ngoại trừ bãi cỏ xanh nổi lên như một viên ngọc lục bảo giữa phong cảnh chung quanh. Những mỏm đá màu xám, những đám mây màu xám, pha lẫn với ánh mặt trời nhàn nhạt xa xa, trôi lững lờ trên mặt biển, phủ một màu xám lên tòan bộ bức tranh thiên nhiên. Biển như tràn ngập lên tất cả những chỗ cạn và những dãi cát với một màn sương hung dữ, dày đặc từ đại dương đi vào đất liền. Chân trời đã biến mất trong màn sương xám xịt này. Tất cả đều mênh mông xa vắng, mây trời thì ùn ùn kéo lại thành từng lớp như những tầng đá khổng lồ, và thỉnh thoảng lại có những tiếng kêu vang dội khắp mặt biển như vang lên từ địa ngục. Một bóng đen thỉnh thỏang lại xuất hiện trên mặt biển, đôi khi chìm khuất trong màn sương, giống như một 'người đàn ông đang đi bộ trên những mảnh ván'. Những chiếc thuyền đánh cá vội vã quay trở vào bờ. Sóng biển cuồn cuộn hung hãn đập vào bờ như muốn cuốn phăng cả hải cảng đi, rồi rút ra qua những lỗ thông nước. Ông bạn già Swales đến thăm. Ông ta đi thẳng lại chỗ tôi, và qua cái cách ông ta nhấc mũ thì tôi hiểu rằng ông ta muốn nói chuyện.

Tôi có phần xúc động trước sự thay đổi nơi người đàn ông tội nghiệp già cỗi này. Khi ông ấy ngồi cạnh tôi, ông nói với một vẻ rất lịch thiệp, "Tôi muốn nói với cô đôi điều, thưa cô."

Tôi thấy ông ấy không bình tĩnh lắm, nên tôi nắm lấy bàn tay nhăn nheo già nua của ông trong tay tôi và nói ông ấy hãy cứ nói hết.

Ông ta rút tay ra khỏi tay tôi và nói, "Cô bé yêu quý của tôi, tôi sợ rằng sẽ làm cô bị sốc với những điều khủng khiếp tôi sắp nói ra về cái chết.Trong những tuần qua tôi đã không nói về chúng, nhưng tôi muốn cô nhớ kỹ khi tôi đã ra đi. Chúng tôi là những kẻ lang thang sau những bánh lái đi khắp mọi nơi trên trái đất, mà chẳng có ai buồn nghĩ đến nó, chúng tôi cũng chẳng sợ hãi gì về nó. Trái tim tôi tự hào rằng tôi hoàn toàn xem thường cái chết. Nhưng mà, cô bạn ạ, Chúa sẽ phù hộ cho cô, tôi chẳng sợ gì cái chết, nhưng tôi không muốn chết nếu như tôi vẩn còn có thể tìm thấy lối thóat. Thời điểm của tôi đã sắp đến rồi, và tôi biết rằng, một trăm năm là một cuộc đời dài so với cuộc sống của một con người, và tôi đã cảm thấy lão Thần Chết đang vung lưỡi hái của lão đâu đây. Cô thấy đấy, tôi vẩn chưa dứt được thói quen đùa cợt với nó. Cái lưỡi hái ấy lão vẩn thường vung lên trước mặt tôi như một trò đùa quen thuộc của hắn. Rồi sắp đến hắn sẽ thổi lên tiếng kèn gọi của hắn cho tôi. Nhưng cô đừng tỏ ra như thế chứ, cô bạn thân yêu!" – đó là lúc ông ấy thấy tôi đang khóc – "nếu hắn đến vào lúc khuya khoắt này tôi sẽ từ chối chẳng thèm trả lời lời gọi của hắn đâu. Cuộc sống là cái mà, sau khi những gì mà người ta làm được, người ta chờ đợi một cái gì khác xảy đến, thì cái chết chính là cái điều hợp lý để đợi chờ. Nhưng tôi hài lòng nếu nó đến với tôi, cô bạn thân mến, và hãy đến nhanh lên. Nó có thể đến trong khi đang được trông ngóng và đợi chờ. Có thể nó nằm đâu đó trong những cơn gió biển đang mang đến sự mất mát và tàn phá, làm tâm hồn tan nát, làm con tim nhói đau. Nhìn xem! Nhìn xem!" ông ta đột ngột kêu lên. "Có một cái gì đó trong cơn gió này. Nó mang theo mùi vị, âm thanh, mang theo sắc màu của cái chết. Nó đâu đó trong không khí. Tôi cảm thấy nó đang đến đấy. Chúa ơi, hãy làm cho vui sướng khi ngài gọi con!" Ông ta giơ tay lên một cách nhiệt thành, nhấc mũ lên. Môi ông ta mấp máy như đang cầu nguyện. Sau vài phút im lặng, ông ấy đứng dậy, bắt tay tôi, chúc phúc cho tôi, rồi chào tạm biệt và khập khiểng bước đi. Điều này làm tôi xúc động tận tâm can và buồn rầu không ngớt.

Tôi vui lên khi người lính tuần duyên đi đến một mình, với cái kính viễn vọng trong tay. Ông ta dừng chân nói chuyện với tôi như mọi khi, nhưng vẩn chăm chú theo dõi một con tàu lạ.

"Con tàu này lạ quá," ông ta nói. "Nó là tàu Nga, qua dáng vẻ bên ngòai. Nhưng nó kéo còi liên tục một cách dị thường. Hình như chẳng có ai điều khiển nó. Giống như nó thấy trước một cơn bão, nhưng không biết là nên chạy thẳng lên phía bắc để tránh hay cập vào đây. Nhìn lại xem! Nó di chuyển rất kỳ quặc, hình như chẳng có ai điều khiển bánh lái cả. Cứ mỗi cơn gió lại làm nó đổi hướng. Ngay trước sáng mai chúng ta sẽ biết thêm về nó."
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





Ác quỉ Dracula - Chương 4,5,6 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác quỉ Dracula - Chương 4,5,6   Ác quỉ Dracula - Chương 4,5,6 Icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
Ác quỉ Dracula - Chương 4,5,6
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Ác quỉ Dracula - Chương 1-2-3
» Ác quỉ Dracula - Chương 7-8-9-10-11
» Ác quỉ Dracula - Chương 12-13-14-15-16
» Ác quỉ Dracula - Chương 17-18-19-20-21
» Ác quỉ Dracula - Chương 22-23-24-25-26

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
..:: WORLD ♥ OF ♥ TEEN † HOÀNG HOA THÁM † HIGH SCHOOL ::.. :: Box không dành cho người yếu tim!!-
Chuyển đến