..:: WORLD ♥ OF ♥ TEEN † HOÀNG HOA THÁM † HIGH SCHOOL ::..
Chào mừng bạn đã đến với Thế Giởi Tuổi Teen!
Hãy giới thiệu forum này đến với những người thân yêu của bạn nhé :")
..:: WORLD ♥ OF ♥ TEEN † HOÀNG HOA THÁM † HIGH SCHOOL ::..
Chào mừng bạn đã đến với Thế Giởi Tuổi Teen!
Hãy giới thiệu forum này đến với những người thân yêu của bạn nhé :")
..:: WORLD ♥ OF ♥ TEEN † HOÀNG HOA THÁM † HIGH SCHOOL ::..
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

..:: WORLD ♥ OF ♥ TEEN † HOÀNG HOA THÁM † HIGH SCHOOL ::..

† 11A9 † Vượt qua tất cả ☻ Xoá bỏ quá khứ ☻ Củng cố hiện tại ☻ Hướng tới tương lai
 
Trang ChínhGalleryTìm kiếmLatest imagesĐăng kýĐăng Nhập

 

 Ác quỉ Dracula - Chương 7-8-9-10-11

Go down 
Tác giảThông điệp
Ku.Péo
Thành viên V.I.P
Thành viên V.I.P
Ku.Péo


Points : 745
Bạn được Thanks: : 1
Join date : 25/09/2009
Age : 30
Đến từ : Trung Quốc
Humor : Funny Face ^^

Ác quỉ Dracula - Chương 7-8-9-10-11 Empty
Bài gửiTiêu đề: Ác quỉ Dracula - Chương 7-8-9-10-11   Ác quỉ Dracula - Chương 7-8-9-10-11 Icon_minitime11/10/2009, 5:35 pm

Ác quỉ Dracula - Chương 7

(ĐƯỢC DÁN TRONG NHẬT KÝ CỦA MINA MURRAY)
Theo tin của phóng viên.

Whitby.

Một trong những cơn bão hung hãn và bất ngờ nhất mà người ta ghi nhận lại được đã diễn ra ở đây, mà kết quả để lại của nó thật lạ lùng và khó tin. Thời tiết gần đây có vẻ khá oi bức, nhưng cũng không đến nỗi quá đặc biệt trong tiết tháng Tám này. Chiều chủ nhật vẩn đẹp trời như thường lệ, và lượng khách du lịch khổng lồ đổ dồn về hôm qua được dẩn đi thăm Rừng Mulgrave, Vịnh Robin Hood, Đồi Rig, Runswick, Staithes và những địa danh du lịch khác chung quanh Whitby. Những con tàu hơi nước thực hiện những chuyến du hành lên xuống bờ biển, và số lượng khách du lịch đến và đi Whitby tăng lên một cách bất thường. Sự bất thường tuyệt diệu đó kéo dài đến tận trưa, cho đến khi một số tin đồn được lan ra từ Vách đá Phía Đông khu nhà thờ, rằng giáo chủ ra lệnh hãy để quang bờ biển phía bắc và phía tây, để có thể thuận tiện quan sát sự xuất hiện của hiện tượng "đuôi ngựa cái" trên bầu trời phương bắc. Gió nam thổi mơn man, mà nói theo ngôn ngữ khí tượng học là 'Gió cấp hai, thổi nhẹ.'

Những người lính tuần duyên làm những bản báo cáo theo đúng chức năng của mình, và một người đánh cá già, người đã hơn nữa thế kỷ quan sát những dấu hiệu của thời tiết từ Vách đá Phía Đông, tiên đóan dứt khóat về một cơn bão sắp diễn đến thình lình. Hòang hôn diễn ra đẹp tuyệt vời, với những đám mây hòa lẫn nhiều sắc màu pha trộn thành một bức tranh hùng vĩ, khiến cho một khối lượng lớn khách đi dạo trên vách đá nằm trên khu nghĩa địa gần nhà thờ đã tập trung lại để thưởng thức cảnh đẹp. Trước khi mặt trời chìm hẳn vào bóng đêm của Kettleness, nó liều lĩnh đi xuyên qua vùng trời phía tây, khiến quá trình lặn dần của nó tạo nên vô số những đám mây sặc sỡ với những màu sắc đặc trưng cho buổi hòang hôn, hồng lửa, tía, hồng cẩm chưởng, xanh lá cây, tím violet và tất cả các cung bậc khác nhau của sắc vàng, pha trộn với những mảng đen đây đó với nhiều hình dạng khác nhau, phác họa lên một hình bóng đêm đen thật ấn tượng. Cảnh đẹp chiều nay chẳng thể nào phai mờ trong tâm hồn những người nghệ sĩ, và không còn nghi ngờ gì nữa, những nét phác thảo về bức tranh "Khúc dạo đầu cho Cơn Bão Lớn" sẽ làm rạng danh cho những bức tường của R.A và R.I vào tháng Năm tới.

Nhiều loại tàu khác nhau đã được thuyền trưởng của mình cho cập vào cảng, với ý định ở lại đây cho đến khi bão tan. Gió đã tắt hẳn trong suốt chiều, và đến nữa đêm thì không khí vô cùng oi bức và ngột ngạt do không còn một chút gió biển nào, và tiếp theo một cách thường lệ là những tiếng sấm vang dội làm run sợ những người yếu bóng vía.

Có vài ánh chớp lóe lên trên biển, chiếu sáng những con tàu chạy hơi nước được neo chắc gần cột chống trên bờ biển, và vài chiếc thuyền đánh cá khác. Chiếc tàu duy nhất ngòai khơi là một chiếc thuyền buồm ngoại quốc với tất cả các cánh buồm được giương lên, hình như định đi về phía tây. Sự liều lĩnh hoặc ngây thơ của những kẻ điều khiển chiếc tàu buồm này làm dội lên những tiếng bình luận không ngớt trong khi nó còn được nhìn thấy, trong lúc mọi người cố gắng ra hiệu cho nó biết sự nguy hiểm đang ập đến với chuyến đi của nó. Trước khi đêm xuống hẳn chiếc thuyền buồm còn được trông thấy bềnh bồng giữa những cơn sóng chập chờn của biển cả một cách bình thản.

"Nó bình thản như một con tàu được vẽ trên một bức tranh về biển."

Gần đến mười giờ, thời tiết vẩn oi bức, và sự im lặng bao trùm làm nổi bật lên những tiếng kêu của bầy cừu, những tiếng sủa xa xăm của lũ chó bên trong thị trấn, khiến cho giữa hai đầu bờ đê như chìm trong một buổi hòa âm lặng lẽ của thiên nhiên mang đầy đặc trưng của nước Pháp. Sau nữa một chút thì một một tiếng động lạ vọng lại từ bờ biển, và một vang trong không khí là một tiếng nổ lớn vọng về từ xa vắng.

Rồi thình lình cơn bão ập đến mà chẳng có gì báo trưóc. Với một tốc độ nhanh đến mức không tưởng, mà sau đó người ta không thể hình dung lại được, tòan bộ thiên nhiên như bùng lên một cơn chấn động khôn cùng. Những cơn sóng hung hãn dâng cao, đợt này nối tiếp đợt khác, làm cho biển cả chỉ đang êm ả mới đây nay trở nên hung hăng và cuồng nộ như một con quái vật. Những cơn sóng điên cuồng tràn lên bãi cát và cuốn đi mọi thứ trên vách đá. Những cơn sóng khác công phá vào bến tàu, bọt sóng tung tóe đến tận những ngọn đèn hải đăng treo ở hai đầu Cảng Whitby.

Gió biển gầm vang như cơn sấm sét, và thổi mạnh đến nỗi ngay cả một người khỏe mạnh cũng khó có thể đứng vững trên đôi chân của mình nếu như không được móc chặc vào một cây cột thép. Người ta thấy rõ là cần phải giải tán ngay cái đám đông khổng lồ đang tập trung ở chỗ móng đê, nếu không thì sự thiệt hại do cơn bão gây ra trong đêm nay sẽ càng gia tăng lớn hơn. Thêm vào cho những sự khó khăn và nguy hiểm của tình thế, một bầy lớn những con hải cẩu tràn vào bờ. Cái đám đông trắng và ẩm ướt kia lập tức bị quét đi một cách ma quái bởi bầy thú nhám nhúa, đen đua và lạnh giá này. Có thể tưởng tượng rằng linh hồn của những con hải cẩu đã bị chết ngày xưa trong biển cả đã chạm những bàn tay lạnh giá của cái chết vào những đồng loại của chúng, và nhiều người chợt rùng mình khi màn sương cuồn cuộn của biển cả tan ra.

Ngay khi sương tan ra, trên mặt biển chớp lên một vầng hào quang sáng chói, rực rỡ và mau chóng, tiếp theo là hàng loạt những tiếng gầm của sấm sét khiến cho cả bầu trời cao như run rẩy dưới những bước chân hung hãn của bão tố.

Quang cảnh đang diễn ra có một dáng vẻ hùng vĩ khôn tả và thu hút hết thần trí của con người. Biển cả cuộn lên những cơn sóng cao như những ngọn núi, tung lên trời những đám bọt trắng xóa, giống như thiên nhiên đang muốn vồ lấy mọi thứ và ném chúng vào giữa khoảng không vô tận. Thấp thóang những chiếc thuyền đánh cá, buồm rách tả tơi, đang cuống cuồng tìm kiếm một chỗ ẩn nấp giữa thiên nhiên hung dữ, là những đôi cánh trắng của những con hải âu đang bị dập vùi giữa các đợt sóng khổng lồ. Trên đỉnh của Vách Đá Phía Đông có một cây đèn pha lớn đang vừa được đưa ra thử nghiệm, nhưng chưa được sử dụng lần nào. Bây giờ thì những nhân viên phụ trách của nó đang bắt đầu điều khiển, và ánh sáng của nó xua tan đi bóng tối rọi sáng bề mặt của biển cả. Sự nỗ lực của nó cũng có tác dụng được một hai lần, khi mà chiếc thuyền đánh cá đã bị nước tràn qua mép đã có thể tìm về cảng một cách an tòan dưới sự điều khiển của ánh đèn pha, tránh được mối nguy hiểm va vào các chân đê. Khi mỗi chiếc thuyền đánh cá an toàn về đến cảng thì đám đông đứng bên bờ biển lại kêu lên những tiếng vui mừng, những tiếng kêu như muốn xua tan cơn bão và tống khứ chúng đi.

Chẳng mấy chốc chiếc đèn pha đã phát hiện ra từ phía xa một con thuyền buồm nhỏ với những cánh buồm giương cao, rõ ràng nó chính là chiếc thuyền đã gây nên sự chú ý ban chiều. Gió bây giờ đã thổi ngược về phía Đông, và một cái rùng mình lan đi giữa đám đông khi họ nhận thức rõ mối nguy hiểm mà chiếc thuyền đang phải đương đầu.

Giữa con tàu này và cảng là một dãi đá ngầm lớn đã mà qua nhiều thế hệ đã làm bao con thuyền phải khốn khổ, và với hướng gió hung hãn như thế này, khó mà con thuyền kia có thể về đến cảng.

Thủy triều càng lúc càng dâng cao, các cơn sóng càng lúc càng mạnh, chúng gần như đã nuốt chửng bờ biển, và chiếc tàu buồm kia, với tất cả các cánh buồm vẩn giương cao, vẩn lướt đi băng băng. Người ta nghe thấy tiếng của một thủy thủ lão luyện vang lên "nó chỉ có thể dừng lại ở một nơi gọi là địa ngục mà thôi." Rồi một màn sương biển khác ập đến, dày đặc hơn lúc nào hết. Cái khối sương ẩm ướt kia đã phủ một tấm vải xám lên mọi vật, và bây giờ người ta chỉ còn nghe thấy những giọng nói, tiếng gầm của thời tiết, tiếng vang của sấm sét, và rồi một tiếng động khủng khiếp truyền đi mơ hồ giữa các cơn sóng, lớn hơn tất cả các tiếng động trước đây. Hướng rọi sáng của đèn pha được giữ từ phía cổng hải cảng xuyên qua Vách Đá Phía Đông, và mọi người đều chờ đợi một cú sốc, tất cả đều nín thở.

Gió biển thình lình thổi giạt sang hướng bắc, và khối sương còn đọng lại cũng tan đi trong gió. Và, điều kỳ diệu đã xảy ra, giữa những nhịp đê, trườn mình lên những ngọn sóng, xông pha một cách liều lĩnh, con tàu buồm lạ lùng kia vẩn lướt đi cùng gió, tất cả các cánh buồm giương cao, và cập bến an toàn vào cảng. Ánh đèn pha vẩn dõi theo nó, và tất cả mọi người khi trông rõ nó đều rùng mình bởi họ nhìn thấy một thi hài được buộc chặt nơi bánh lái con tàu, đầu gục xuống, lắc lư một cách kinh khiếp theo từng nhịp sóng. Không còn ai khác ở trên tàu.

Một nỗi kinh khiếp lan đi giữa mọi người, khi họ nhận thấy rằng con tàu kia, bằng một phép màu kỳ diệu, đã tìm về được hải cảng dưới bàn tay cầm bánh lái của một người đã chết. Tuy nhiên, mọi việc diễn ra còn nhanh hơn hơn là chúng được ghi lại. Chiếc tàu buồm kia không dừng lại, cứ thế đâm sầm qua cảng, lao vào khối cát và sỏi được tráng lên bởi những cơn sóng thủy triều và những cơn bão thổi về góc phía nam của bến tàu nhô lên dưới Vách Đá Phía Đông, được gọi là Ngọn Đồi Bến Tàu Tate.

Tất nhiên là con tàu chịu một sự chấn động khủng khiếp khi nó lao vào khối cát. Tất cả cột trụ, dây thừng, dây néo đều căng lên, rồi sập xuống như bị một cây búa khổng lồ nện xuống. Nhưng lạ lùng hơn hết thảy là ngay khi con tàu chạm vào bờ biển, một con chó khổng lồ đã phóng vụt xuống, và giống như bị kích thích bởi sự chấn động, đã phóng vội đi, nhảy những bước dài trên các mô cát.

Nó chạy thẳng về phía vách đá cao, nơi có một con đường dẩn từ khu nghĩa địa vào Bến Tàu Phía Đông, nơi có một ngôi mộ hay những bia đá được gọi bằng những thứ tiếng địa phương của Whitby. Người ta đã có kế hoạch trùng tu lại vách đá để nó đừng đổ ập xuống. Con chó biến mất vào bóng tối, điều này càng gây nên ấn tượng mạnh khi mà ánh đèn pha vẩn dõi chặt theo nó.
Khi điều này xảy ra thì chẳng có ai ở Ngọn Đồi Bến Tàu Tate cả, bởi vì tất cả ngôi nhà ở đó đều đóng chặt cửa để đi ngủ hoặc leo lên trên đồi để quan sát. Đoạn người lính tuần duyên đang làm phận sự ở phía tây hải cảng chạy xuống bến tàu nhỏ, anh ta là người đầu tiên leo lên boong. Những người điều khiển đèn pha, sau khi sục xạo lối vào hải cảng mà chẳng thấy gì thêm, bèn chiếu hờ hững ánh đèn lên tàu và giữ nó ở yên đấy. Người lính tuần duyên chạy xuống đuôi tàu, đến bên bánh lái để kiểm tra, và thình lình giật lùi lại như gặp phải một biến cố gì đó thình lình. Điều này càng khêu gợi sự tò mò chung, và một lượng lớn người bắt đầu chạy đến.

Có một con đường vòng từ Vách Đá Phía Tây đi qua cây cầu Draw dẩn đến Ngọn Đồi Bến Tàu Tate, và người phóng viên trung thành của bạn là một tay chạy rất tuyệt, anh ta đã dẩn dầu đông. Tuy nhiên, khi tôi đến nơi, tôi thấy một đám đông đã bao quanh bến tàu, nhưng những người lính tuần duyên và cảnh sát không cho phép ai vào cả. Nhưng đội trưởng của những người chèo thuyền thuê đã thật lịch lãm khi cho phép tôi, người phóng viên trung thành của bạn, được phép leo lên boong. Ở đây có một nhóm nhỏ đang quan sát người thủy thủ chết lúc này vẩn còn bị buộc chặt vào bánh lái.

Không có gì lạ khi người lính tuần duyên tỏ ra ngạc nhiên, thậm chí kinh sợ trước những gì được nhìn thấy. Người chết chỉ bị buộc hai tay vòng qua bánh lái để anh ta được giữ chặt với nó. Nắm giữa tay anh và lớp gỗ là một cây thánh giá, một chuỗi tràng hạt được buộc vòng quanh cổ tay anh và bánh lái, và được giữ chặt bằng một những sợi thừng buộc lại. Người đàn ông khốn khổ đã không bị ngồi xuống bởi những cánh buồm đã được đặt xuyên qua bánh lái, giữ anh ta lắc lư quật anh ta lên xuống qua lại, và những sợi thừng trói anh ta đã cắt qua da thịt vào đến tận xương.

Người ta ghi chép cẩn thận lại mọi chuyện, và một bác sĩ, bác sĩ giải phẫu J.M.Caffyn, ở 33, Vùng Đông Elliot, người đến ngay sau tôi, sau khi kiểm tra, đã nói rằng người đàn ông này đã chết được khỏang hai ngày.

Trong túi anh ta là một cái chai, mà sau khi mở nút, người ta cẩn thận lấy ra một cuộn giấy, những thứ sau này được biết là phần thêm vào của nhật ký hàng hải.

Người lính tuần duyên nói rằng người đàn ông này đã tự trói mình, và buộc gút bằng răng. Sự kiện người lính tuần duyên là người đầu tiên lên tàu đã gây ra những sự rắc rối sau này, vì theo luật hải quân, người lính tuần duyên không có quyền đòi hỏi quyền lợi mà một thường dân sẽ được hưởng nếu anh ta đi vào một con tàu bỏ hoang. Tuy nhiên, việc tranh cãi về tính hợp pháp để sỡ hữu những tài sản này sẽ còn được tranh cãi, một sinh viên luật trẻ đã lớn tiếng chứng minh rằng dù người chủ nhân có tòan quyền dâng hiến tài sản của mình, tuy nhiên việc chiếm hữu tòan bộ những tài sản là không hợp pháp, bởi vì bánh lái vẩn còn được giữ trong tay người chết như là một sự tượng trưng cho sự sở hữu.

Chẳng cần phải nói thêm là người thủy thủ xấu số đã được mang đi chôn cất một cách trang trọng từ cái nơi mà anh ta đã dũng cảm gìn giữ danh dự của mình cho đến chết, với một tinh thần kiên định đầy quả cảm như chàng Casabianca trẻ tuổi, và đám tang của anh ta sẽ được cử hành sau cuộc điều tra.

Lúc này bão đã tạnh, thiên nhiên không còn hung dữ nữa. Đám đông đang giải tán rải rác, và bầu trời lại ửng hồng trên khắp miền Yorkshire.

Trong những kỳ phát hành sắp tới tôi sẽ tiếp tục gửi đến quý vị những chi tiết về con tàu hoang đã vượt qua cơn bão một cách kỳ diệu để về đến bến cảng.

Ngày 9 tháng 8. – Những khám phá về con tàu hoang kỳ lạ đã đến trong cơn bão tối hôm qua càng khiến mọi người thêm ngạc nhiên về nó. Chiếc tàu buồm này được làm rõ là đi từ Nga đến Varna, có tên là Demeter. Nó gần như chỉ lót đầy những cát mịn, với một số lượng nhỏ hàng hóa, là những cái thùng gỗ đầy đất.

Những hàng hóa này được gửi cho một cố vấn pháp luật ở Whitby, ngài S.F.Billington ở số 7, Cresten. Ngay sáng hôm đó ông này đã lên boong và tiến hành những thủ tục cần thiết để nhận nó.

Lãnh sự Nga cũng đến, và chiếu theo hợp đồng thuê tàu, lấy lại quyền sở hữu đối với con tàu, cũng như trả cho cảng những khỏan thuế cần thiết v.v…

Không có gì đặc biệt được đề cập đến trong ngày hôm nay, ngoại trừ một sự trùng hợp kỳ lạ. Các nhân viên của Ủy ban Thương mại đã xác nhận hoàn toàn mọi sự việc đã được làm đúng theo luật lệ. 'Cái điều không thể tin được'đã xảy ra, ủy ban này đã cho thấy một cách rõ ràng là họ sẽ không đưa ra sự phàn nàn nào.

Sự chú ý bây giờ đổ dồn về phía con chó đã nhảy xuống khi chiếc tàu đâm vào bờ, và một vài thành viên của S.P.C.A vốn rất có thế lực trên Whitby đã nhận nuôi chú chó này. Nhưng ai nấy đều thất vọng vì không thể tìm ra chú chó. Cả thị trấn hình như đều thất vọng về điều này.Có lẽ do quá hỏang sợ, con chó đã trốn ra những cánh đồng hoang, nơi mà vẩn là những vùng bí ẩn trên lãnh thổ.

Một số người đã sợ hãi điều này, vì rằng con vật kia có thể trở nên rất nguy hiểm, bởi vì rõ ràng nó đã là một sinh vật hung tợn. Sáng sớm nay người ta thấy một con chó lớn, thuộc một giống chó lớn tai cụp lai của một thương gia buôn bán than đang nằm chết trên con đường đối diện với vùng đất của chủ nó. Đã có một trận chiến diễn ra, và rõ ràng là con chó đã có một đối thủ hung bạo, vì cổ họng nó bị xé toạc, và bụng nó thì bị rạch tung bởi những móng vuốt dã man.

Đêm khuya. – Do sự tử tế của ngài thanh tra của Ủy ban Thương mại, tôi được phép nhìn vào cuốn nhật trình hàng hải của Demeter, vẩn còn được ghi chép lại cho đến ba ngày trước, nhưng chẳng có gì đặc biệt ngoại trừ sự kiện một số người mất tích. Tuy nhiên, điều thú vị nhất nằm trong cuộn giấy được tìm thấy trong cái chai, ngày hôm nay được đưa ra để điều tra. Khi trải chúng ra, người ta tìm thấy một câu chuyện lạ lùng được tường thuật lại, tôi chưa từng gặp phải chuyện gì lạ lùng như thế.

Do không có điều gì phải che giấu, tôi được phép sử dụng tài liệu này, và được chấp thuận để gửi cho các bạn một bản sao của nó, chỉ đơn giản loại bỏ bớt những phần chi tiết kỹ thuật về công việc của những người thủy thủ và chuyên chở hàng hóa. Có lẽ là người thuyền trưởng đã bị một cơn điên xâm chiếm khiến ông ta buộc phải nhảy xuống làn nước xanh, căn bệnh đã tồn tại và lan rộng suốt cuộc hành trình. Tất nhiên lời kể lại của tôi vẩn chưa phải hoàn toàn chính xác, vì tôi được một thư ký của lãnh sự Nga đã tốt bụng dịch lại bản tài liệu này và đọc lại cho tôi chép.

NHẬT KÝ HẢI TRÌNH CỦA "DEMETER" VARNA ĐI WHITBY

Được viết vào ngày 18 tháng 7, đã có nhiều chuyện lạ xảy ra, và tôi sẽ ghi chép lại thật chính xác cho đến khi chúng tôi cập bến.

Vào ngày 6 tháng 7 chúng tôi chất hàng lên tàu, cát mịn và những cái thùng đất. Đến trưa thì giương buồm. Gió đông, vừa mới nổi. Thủy thủ đoàn, năm… hai thuyền phó, đầu bếp, và tôi (thuyền trưởng).

Đến bình minh 11 tháng 7, cập bến Bosphorus. Đón thêm những viên chức Thuế quan Thổ Nhĩ Kỳ lên boong. Lại chuẩn bị lên đường. Tất cả đều ổn. Tiếp tục chuyến đi lúc 4 giờ chiều.

Đến 12 tháng 7 thì đi ngang Daradnelles. Thêm một số viên chức Thuế quan và nhân viên cứu hộ lên tàu. Lại tiếp tục lên đường. Công việc của các viên chức diễn ra tỉ mỉ nhưng nhanh chóng. Họ muốn chúng tôi đi sớm. Đến tối thì vào Archipelago.

Đến 13 tháng 7 thì đi ngang Mũi Matapan. Thủy thủ đòan hình như không hài lòng về một chuyện gì đó. Một số sợ hãi, nhưng không nói ra.

Đến 14 tháng 7 thì thủy thủ đòan trở nên rất lo lắng. Bọn họ đều là những người đàn ông vững vàng đã từng đi biển với tôi. Thuyền phó không thể hiểu được đang xảy ra chuyện gì. Họ chỉ nói với ông ta là có một CÁI GÌ ĐÓ, và làm dấu thánh. Người thuyền phó mất bình tĩnh với một người trong bọn họ và đánh anh ta. Một cuộc ẩu đả hẳn sẽ nổ ra, nhưng tất cả vẩn im lặng.

Đến ngày 16 tháng 7 thì thuyền phó trong buổi sáng hôm đó đã phát hiện một trong số thủy thủ đòan, Petrofsky, đã mất tích. Không thể tìm thấy anh ta. Vào tám giờ tối hôm truớc anh ta đi lên mạn trái của tàu, cùng với Amramoff, nhưng không trở về giường ngủ. Mọi người càng xuống tinh thần hơn lúc nào hết. Tất cả bọn họ đều nói rằng họ chờ đợi những việc như vậy diễn ra, nhưng không nói gì hơn là có một CÁI GÌ ĐÓ ở trên boong. Thuyền phó đã mất hết kiên nhẫn với bọn họ. Tôi sợ rằng những điều rắc rối sẽ vẩn còn tiếp tục.

Vào ngày 17 tháng 7, hôm qua, một người trong bọn họ, Olgaren đã đi vào cabin của tôi với dáng điệu run sợ, anh ta kể với tôi rằng anh ta nghĩ là có một người đàn ông lạ ở trên tàu. Anh nói rằng khi anh ra trú một cơn mưa bão ở căn phòng dưới boong tàu, thì anh ta thấy một người đàn ông cao, gầy, chẳng giống một ai trong số thủy thủ đòan, đi theo lối đi dẩn lên, đi một mình lên boong và biến mất. Anh ta cẩn thận bám theo, nhưng đến mũi tàu thì chẳng thấy một ai, còn những cánh cửa sập vẩn được đóng chặt. Anh ta hoảng lạn trong một nỗi sợ hãi mê tín, và tôi sợ rằng cơn hỏang lạn này sẽ còn lan rộng. Để trấn an anh ta, tôi sẽ tổ chức một cuộc kiểm tra vào thứ hai trên tòan bộ con tàu từ đầu đến cuối.

Đến khuya tôi tập hợp tòan bộ thủy thủ đòan, nói rằng do họ tin chắc là có ai lạ trên tàu, chúng tôi sẽ kiểm tra tòan bộ con tàu. Thuyền phó thứ nhất phản đối, nói rằng điều đó là ngớ ngẩn, việc ngã theo một ý kiến nhảm nhí như vậy sẽ chỉ làm mọi người mất tinh thần, ông ta hứa sẽ giúp mọi người giũ bỏ mọi rắc rối bằng một cây đòn. Tôi ra lệnh cho ông ta đi lái tàu, mọi tất cả mọi người còn lại bắt đầu một cuộc kiểm tra, đi cùng với nhau, với những ngọn đèn lồng trong tay. Chúng tôi không bỏ qua một ngóc ngách nào. Và ngòai những cái thùng gỗ kia, thì không còn một ngóc ngách khốn kiếp nào mà một con người có thể trốn được. Mọi người phục hồi tinh thần khi cuộc tìm kiếm chấm dứt, và trở lại làm việc vui vẻ. Người thuyền phó thứ nhất tỏ ra cáu kỉnh, nhưng ông không nói gì.

Ngày 22 tháng 7. – Thời tiết xấu trong ba ngày vừa qua, và tất cả mối bận tâm đều dồn về những cánh buồm, không ai có thời gian để mà sợ hãi nữa. Mọi người hình như đã quên phứt đi mối sợ hãi kinh khiếp của mình. Thuyền phó vui vẻ trở lại, và thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình. Tuyên dương mọi người đã tích cực làm việc trong thời tiết xấu.Vượt qua Gibraltar và qua khỏi eo biển. Tất cả đều tốt đẹp.

Ngày 24 tháng 7. – Những điều tồi tệ lại xảy ra trên tàu. Sau một chặng đường ngắn, chúng tôi đi vào Vịnh Biscay. Gió biển thổi lồng lộng, và tối hôm qua lại một người khác mất tích. Giống như người đầu tiên, anh ta thực hiện phiên gác của mình, và không ai thấy lại anh nữa. Tất cả mọi người đều hỏang loạn trong sợ hãi, và đưa ra một bản kiến nghị đề nghị mỗi phiên gác sẽ có hai người, do họ sợ ở một mình. Thuyền phó nổi giận. Sợ sẽ có thêm rắc rối nếu người thuyền phó hoặc thủy thủ đòan dùng đến bạo lực.

Ngày 28 tháng 7. – Bốn ngày trong địa ngục, mọi người luôn bị căng thẳng và thời tiết luôn cuồng nộ. Không ai có thể ngủ được. Mọi người đều mệt lử. Không sắp gác được vì mọi người đều không còn sức lực nữa. Thuyền phó thứ hai tình nguyện lái tàu và canh gác để mọi người có được vài giờ nghỉ ngơi. Gió dịu đi, nhưng biển cả xem ra vẩn còn ghê rợn, và con tàu vẩn là nơi mọi người tin tưởng hơn.

Ngày 29 tháng 7. – Lại một bi kịch khác.Tối qua người thuyền phó thứ hai gác một mình, do thủy thủ đòan đã quá mệt để có thêm ai gác đôi với anh ta. Đến sáng thì người gác thay lên boong và chẳng thấy ai ngoại trừ người lái tàu. Cất cao giọng kêu lên, và mọi người đều chạy lên boong. Tìm kiếm kỷ lưỡng, nhưng không ai tìm thấy. Bây giờ thì chúng ta mất người thuyền phó thứ hai, và thủy thủ đòan hỏang loạn. Thuyền phó và tôi đồng ý là phải vũ trang từ lúc này và chờ đợi bất kỳ dấu hiệu lạ nào xảy đến.

Ngày 30 tháng 7. – Đêm cuối cùng. Vui mừng vì chúng tôi đã gần đến nước Anh. Thời tiết tốt, các cánh buồm được giương cao. Sự mệt mỏi căng thẳng bị đẩy lui, ngủ say, và người thuyền phó đánh thức để nói rằng cả người gác và người lái đã biến mất. Chỉ còn tôi và thuyền phó và hai người nữa trên con tàu.

Tháng 1 tháng 8. – Hai ngày chìm đắm trong sương mù và không thấy một cánh buồm nào khác. Đã hy vọng rằng khi đến được Kênh đào Anh thì có thể yêu cầu giúp đỡ hoặc cập vào đâu đó. Không còn sức lực để điều khiển các cánh buồm nữa, đành để mặc con tàu cho gió cuốn đi. Lòng can đảm không suy giảm, nhưng không thể nâng cao nó lên được. Chúng tôi hình như đang bị cuốn trôi vào một địa ngục kinh khiếp. Thuyền phó bây giờ còn hỏang loạn hơn cả những thủy thủ. Bản năng bên trong của ông ta bây giờ quay sang chống lại ông ta. Thủy thủ đã vượt qua nỗi sợ hãi, kiên trì và bền bĩ làm việc, sẳn sàng chờ đợi điều xấu nhất xảy đến. Họ là người Nga, còn ông ấy là người Rumani.

Ngày 2 tháng 8. – Nữa đêm. Thức dậy sau khi ngủ vài phút vì nghe thấy tiếng thét hình như bên ngòai phòng của tôi. Không thể thấy gì trong sương mù cả. Chạy lên boong, và thuyền phó chạy đến. Nói với tôi rằng ông ta nghe thấy tiếng kêu và chạy lại, nhưng không thấy bóng dáng ai cả. Lại một người nữa ra đi. Chúa ơi, giúp chúng con! Thuyền phó nói rằng chúng tôi đã đi qua eo Dover, vì ngay khi sương mù tản ra lúc ông ta nghe thấy tiếng kêu thét, ông ta đã nhìn thấy Dãi Đất Phía Bắc. Nếu chúng tôi bây giờ đã trôi dạt đến vùng Biển Bắc, thì chỉ có Chúa mới có thể chỉ dẩn cho tôi trong màn sương mù đang bao quanh chúng tôi, và Chúa dường như đã bỏ rơi tôi rồi.

Ngày 3 tháng 8. – Lúc nữa đêm tôi đi thay ca cho người lái tàu và khi đến nơi tôi không thấy ai cả. Gió vẩn thổi mạnh, và nương theo cơn gió này thì chúng ta không thể đi chệch hướng. Tôi không dám rời tay lái, nên gọi thuyền phó. Vài giây sau, ông ta lao lên boong trong bộ đồ flannel. Mắt ông điên dại và và trông ông hốc hác, và tôi càng sợ hãi hơn về cái lý do khiến ông như vậy. Ông ta đến gần tôi, kề miệng vào tai tôi, thì thầm bằng một giọng khàn khàn, như sợ rằng có thể có ai đó nghe thấy trong không khí. "Nó ở đây, tôi biết Nó ở đây. Đêm qua trong phiên gác tôi đã thấy Nó, giống như con người, cao và gầy, trắng bệch như xác chết. Nó đứng ở mũi tàu và nhìn ra ngòai. Tôi bò đến sau lưng Nó, và đâm nó bằng con dao của tôi, nhưng dao đâm xuyên qua Nó như đâm xuyên qua không khí vậy." Và khi ông nói, ông vung mạnh dao găm trong không trung một cách hung hãn. Đoạn ông tiếp tục, "Nhưng Nó đang ở đây, và tôi sẽ tìm ra Nó. Nó có thể là sẽ nằm đâu đó trong những cái hộp kia. Tôi sẽ mở tung chúng từng cái một. Ngài giữ tay lái." Rồi với cái nhìn cảnh giác và đặt ngón tay lên môi, ông ta đi xuống. Tôi thấy ông ta xuất hiện trên boong trở lại với hộp dụng cụ và cây đèn lồng, rồi đi xuống cửa sập. Ông ấy thật sự là điên cuồng, hòan tòan điên cuồng, và tôi không thể cản ông lại được. Ông ta không thể đụng đến những cái hộp, chúng là hàng chuyển giao, và không thể làm như ông ta định làm. Tôi ngồi lại giữ tay lái, và viết những dòng này. Tôi chỉ có thể tin vào Chúa và đợi cho sương tan đi. Rồi lúc đó, nếu tôi không thể cập vào một hải cảng nào khi gió vẩn thổi như thế này, tôi sẽ cắt buồm, ngã chúng xuống, và ra dấu hiệu cầu cứu…

Bây giờ hình như là mọi chuyện đã qua. Ngay lúc tôi bắt đầu hy vọng rằng thuyền phó sẽ bình tĩnh hơn và đi ra, thì tôi nghe thấy ông ta nện liên tục vào một cái gì đó trong khoang, công việc của ông ta có vẻ tiến triển, rồi thình lình từ cửa sập vang lên một tiếng thét đột ngột làm máu trong người tôi như đông cứng lại, rồi ông ta vọt lên boong tàu nhanh như tên bắn, hỏang loạn tột cùng, mắt ông trợn tròn và mặt ông ta co giật trong kinh hãi. "Cứu tôi với! Cứu tôi với!" ông ta gào lên, và rồi nhìn màn sương chung quanh. Sự hỏang loạn của ông chuyển thành sự tuyệt vọng, rồi với một giọng bình thản ông ta nói, "Ngài tốt hơn nên làm như tôi, thuyền trưởng, trước khi quá muộn. Hắn ở đây! Tôi đã biết điều bí mật rồi. Đại dương sẽ bảo vệ tôi trước Hắn, và đấy là tất cả những gì còn lại!" Trước khi tôi kịp nói lời nào hay làm bất cứ điều gì để giữ ông ta lại, ông ta nhảy qua hàng rào chắn và bình thản buông mình xuống biển. Lúc này thì tôi nghĩ rằng tôi cũng đã biết được điều bí mật. Đấy là một người điên đã lần lượt ném từng người trong thủy thủ đòan xuống biển, và bây giờ chính ông ta làm theo họ. Chúa cứu tôi! Làm sao tôi có thể chịu đựng được tất cả những chuyện kinh dị này khi tôi đến được cảng? Khi tôi đến được cảng! Bao giờ thì điều đó xảy ra?

Ngày 4 tháng 8. Sương mù dày đặc, và bình minh không thể chọc thủng được. Tôi biết bình minh đã đến vì tôi là một thủy thủ, tôi biết phân biệt những thứ này. Tôi không dám đi xuống, tôi không dám rời tay lái, và tôi đã ở đây suốt đêm, và trong bóng tối lờ mờ tôi đã thấy nó. Hắn! Chúa ơi, xin hãy tha thứ cho con, nhưng người thuyền phó đã làm đúng khi nhảy khỏi boong tàu. Đó là cách tốt hơn để chết như một con người. Để chết như một thủy thủ giữa làn nước xanh, không ai có thể làm gì được. Nhưng tôi là thuyền trưởng, tôi không thể bỏ con tàu của mình. Nhưng tôi sẽ chống lại tên ác ma hay quái vật này, tôi sẽ trói tay tôi vào bánh lái khi sức lực của tôi bắt đầu cạn kiệt, và tôi sẽ buộc vào thêm một thứ mà Hắn, Nó, sẽ không dám chạm đến. Và với cơn gió thuận hoặc nghịch, tôi sẽ bảo vệ được linh hồn của mình, và bảo vệ được danh dự thuyền trưởng của mình. Tôi đang trở nên yếu hơn, và bóng đêm đang xuống dần. Nếu Hắn lại xuất hiện trước mặt tôi một lần nữa, tôi sẽ không còn thời gian để hành động… Nếu chúng tôi bị đắm, có thể cái chai này sẽ được tìm thấy, và người nào đọc nó sẽ hiểu. Nếu không… được thôi, mọi người sẽ biết là tôi đã là trung thành với bổn phận của mình. Chúa, Đức Mẹ Đồng Trinh và Các Thánh sẽ giúp cho một linh hồn tội nghiệp ngu dại đang cố thực hiện nhiệm vụ của mình…

Tất nhiên lời phán quyết được đưa ra công khai. Không có bằng chứng nào được đưa ra, không có người nào đưa ra lời buộc tội giết người. Mọi người đều thống nhất rằng người thuyền trưởng hoàn toàn là một anh hùng, và anh ta xứng đáng có một lễ tang bởi quần chúng. Theo sự sắp xếp, thi hài của anh sẽ được chuyển bằng thuyền lên dòng Esk và đưa lên Ngọn Đồi Bến Tàu Tate, rồi đưa qua những bậc thang tu viện và chôn cất tại nghĩa trang trên vách đá. Chủ nhân của hơn một trăm chiếc thuyền đã yêu cầu được cử đại diện đi theo đưa anh về nơi an nghỉ cuối cùng.

Chẳng thấy dấu vết gì về con chó khổng lồ, và đấy sẽ là một đám tang lớn, vì theo ý kiến chung được ghi nhận, tôi tin rằng anh ta sẽ được đưa tiễn bởi cả thị trấn. Ngày mai tang lễ sẽ cử hành, và nó sẽ là sự chấm hết cho thêm một "bí ẩn của biển cả."


NHẬT KÝ CỦA MINA MURRAY

Ngày 8 tháng 8. – Lucy hầu như mất ngủ suốt đêm qua, và tôi cũng không sao ngủ được. Bão táp thật là kinh hãi, và tiếng gầm của nó vang dội qua ống khói lò sưỡi, làm tôi rùng mình. Tiếng gió thổi mạnh vang đến như là tiếng súng nổ ở phía xa xa. Lạ lùng thay, Lucy chẳng hề tỉnh giấc. Hai lần trong cơn mộng du bạn ấy thức dậy và tự thay quần áo. May mắn là mỗi lần ấy tôi đều thức dậy và cố gắng thay quần áo lại cho bạn ấy mà không làm bạn ấy kinh động, đưa bạn ấy trở lại giường. Điều lạ lùng nhất là, dù trong trạng thái mộng du, nhưng mỗi lần sắp vướng phải một chướng ngại nào trên đường đi, bạn ấy đều tự động ngừng lại và đổi hướng, giống như bạn ấy đang thức vậy.

Sáng sớm cả hai chúng tôi đều thức dậy và đi ra cảng để xem đêm qua có xảy ra thêm chuyện gì hay không. Vẩn còn rất đông người trên cảng, và dù mặt trời sáng rực, không khí thóang đảng và trong lành, những cơn sóng lớn vẩn trong đầy u ám, và chúng càng tự làm mình thêm tối tăm bởi những bọt sóng trắng xóa trên đỉnh, chúng cuồn cuộn đập vào cảng, giống như một kẻ hung hãn đang lao vào đám đông. Ở một chừng mực nào thấy tôi cảm thấy vui mừng vì Jonathan không ở trên biển tối hôm qua, mà là ở trên bờ. Nhưng, than ôi, anh ấy đang ở trên biển hay ở trên đất liền? Anh ấy đang ở đâu, và như thế nào? Em vô cùng lo lắng cho anh. Nếu như em chỉ cần biết điều gì đó để làm, và có thể làm điều gì đó cho anh!

Ngày 10 tháng 8. – Đám tang của người thuyền trưởng tội nghiệp kia đã gần xong. Mọi chiếc thuyền trên bến cảng đều có ở đây, và chiếc quan tài được khiêng bởi các thuyền trưởng trên khắp con đường từ Ngọn Đồi Bến Cảng Tate đến khu nghĩa trang. Lucy đi với tôi, và chúng tôi đi trước đến chỗ ngồi quen thuộc của mình, trong khi quan tài được chở đi trên thuyền đi lên tận Viaduct và sau đó quay xuống trở lại. Chúng tôi có một vị trí nhìn rất tốt, và luôn nhìn thấy tòan cảnh đám rước gần như ở mọi vị trí. Người đàn ông đáng thương đã an nghỉ gần chỗ chúng tôi thường ngồi, và chúng tôi đứng đấy theo dõi mọi việc diễn ra.

Lucy tội nghiệp trông có vẻ rất phiền muộn. Bạn ấy luôn lo lắng và bồn chồn không yên, và tôi buộc phải nghĩ rằng cơn mơ đêm qua đang quay lại quấy rầy bạn ấy. Bạn ấy có một cái gì đó rất lạ. Bạn ấy không thể thổ lộ với tôi và đó chính là nguyên nhân cho mọi sự bất an của bạn ấy, hoặc chính là vì bạn ấy cũng không thể tự hiểu thực sự điều đó là gì.

Thêm vào đó, người ta thấy ông Swales tội nghiệp đã chết vào sáng nay tại chỗ mà chúng tôi thường ngồi, cổ ông ấy bị gãy. Bác sĩ nói rằng ông ấy rõ ràng đã rất sợ hãi một cái gì đó, rồi té xuống từ chỗ ngồi của mình, do sự sợ hãi và kinh dị còn hiện rõ trên mặt ông ấy khiến mọi người trông thấy đều rùng mình. Người đàn ông già tội nghiệp thân yêu!

Lucy thật dễ thương và nhạy cảm đến nỗi bạn ấy dễ bị tác động hơn bất cứ ai. Bây giờ bạn ấy đang rất phiền muộn vì một điều gì đó mà tôi chưa thể xác định được, dù bản thân tôi rất dễ thông cảm với mọi người.

Có một người đàn ông thường hay đến đây ngắm tàu thuyền cùng với một chú chó đi theo. Cả hai đều tỏ ra trầm tính, tôi chưa bao giờ thấy người đàn ông nổi giận hay nghe con chó sủa. Nhưng lần này, khi người đàn ông ngồi với chúng tôi, thì con chó không lại gần, nó đứng cách chúng tôi vài yard, sủa và tru lên. Chủ nó dịu dàng kêu nó im đi, rồi lên tiếng gay gắt hơn, và cuối cùng là giận dữ. Nhưng ông không sao làm cho con chó im tiếng. Nó trông rất giận dữ, mắt trông thật man rợ, lông dựng lên tua tủa giống như cái đuôi mèo khi nó chuẩn bị giao tranh.

Cuối cùng người đàn ông nổi giận, ông ta nhảy xuống và đá con chó một cú, rồi tóm gáy nó và nữa kéo nữa ném nó lên tấm bia đá tại chỗ ngồi. Ngay khi chạm vào tảng đá, con vật tội nghiệp run lên bần bật. Nó không tìm cách chạy đi, nhưng nằm mọp xuống, run rẩy và khúm núm, trông một trạng thái run sợ đến tội nghiệp đến nỗi tôi tự nhiên phải đến khuyên giải nó.

Lucy trông cũng vô cùng đáng thương, nhưng bạn ấy không cố để chạm vào con chó, nhưng nhìn với dáng vẻ tuyệt vọng vô cùng. Tôi rất sợ là bạn ấy cũng có một bản năng siêu nhiên để run sợ mà không nói nên lời như thế. Tôi tin chắc là bạn ấy sẽ nằm mơ thấy nó tối nay. Tất cả những điều đang được tích tụ lại, con tàu được lái đến cảng bởi một người chết, những điều anh ta kể lại, được buộc vào bánh lái với cây thánh giá và tràng hạt, việc cử hành tang lễ, con chó lúc giận dữ và lúc thì khiếp sợ, tất cả đủ tạo nên một giấc mơ kinh khiếp cho bạn ấy.

Tôi nghĩ là tốt nhất nên làm cho bạn ấy mệt lử trước khi lên giường, vậy tôi sẽ cùng bạn ấy đi bộ trên những vách đá của vịnh Robin Hood rồi trở về. Bạn ấy sẽ chẳng còn đủ sức cho những cơn mộng du nữa.
Về Đầu Trang Go down
Ku.Péo
Thành viên V.I.P
Thành viên V.I.P
Ku.Péo


Points : 745
Bạn được Thanks: : 1
Join date : 25/09/2009
Age : 30
Đến từ : Trung Quốc
Humor : Funny Face ^^

Ác quỉ Dracula - Chương 7-8-9-10-11 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác quỉ Dracula - Chương 7-8-9-10-11   Ác quỉ Dracula - Chương 7-8-9-10-11 Icon_minitime11/10/2009, 5:36 pm

Ác quỉ Dracula - Chương 8

Nhật ký của Mina Murray.

Cùng ngày, 11 giờ đêm. – Ôi, tôi mệt quá! Nếu như mọi việc không đến nỗi nào thì tôi đã khỏi phải mở nhật ký ra như thường lệ nữa. Chúng tôi đã đi đạo rất vui. Lucy, sau một lúc, đã trở nên vui vẻ, tôi nghĩ chắc là do mấy con bò đáng yêu trên cánh đồng gần ngọn hải đăng đã tiến lại gần chúng tôi làm chúng tôi chết khiếp. Tôi tin rằng chúng tôi đã quên đi mọi thứ, tất nhiên là trừ nỗi lo sợ riêng tư, mây mù dường như đã xua ta và trả lại cho chúng tôi bầu trời trong sáng. Chúng tôi đã dùng 'một bữa trà đơn giản' làm bữa ăn chính lại một quá ăn nhỏ cổ kính đáng yêu ở Vịnh Robin Hood, với một cánh cửa sổ phía bên phải trông ra một mỏm đá phủ đầy rong biển bền bờ biển. Tôi tin rằng chúng tôi đã khiến cho "Người Phụ Nữ Mới" phải bàng hòang trước vẻ ngon miệng của mình. Mọi người trong có vẻ dễ chịu quá, Chúa phù hộ cho họ! Rồi chúng tôi đi bộ về nhà, nhiều lần phải dừng lại nghỉ vì quá sợ những con bò đực hoang dã kia.

Lucy có vẻ rất mệt, và chúng tôi đã định leo ngay lên giường ngay tức khắc. Nhưng một ông cha xứ trẻ đến, và cái cô Westenra ấy đã mời ông ta ở lại dùng bữa tối. Lucy và tôi đều khốn khổ về sự khó chịu này.Tôi biết rằng đây là một việc khó khăn cho tôi, và tôi rất xứng làm một anh hùng. Chắc là một lúc nào đó các giám mục phải đào tạo ra các cha phó mới không biết ăn bữa tối dù có cảm thấy thôi thúc như thế nào nữa, và luôn luôn biết lúc nào thì các cô gái trẻ mỏi mệt.

Lucy đã ngủ và thở nhè nhẹ. Đôi má bạn ấy trông lúc ngủ lại càng thêm gợi cảm. Nếu anh Holmwood đã yêu bạn ấy khi chỉ thấy bạn ấy trong phòng khách, thì không hiểu anh ấy sẽ nói gì khi thấy bạn ấy lúc này. Sẽ có một ngày nào đó các nhà văn của "Người Phụ Nữ Mới" sẽ nảy ra ý tưởng là rằng những người đàn ông và phụ nữ hãy cho phép người khác ngắm mình trong giấc ngủ trước khi tỏ tình và chấp thuận. Nhưng những "Người Phụ Nữ Mới" sẽ chẳng chiếu cố đến những ý tưởng này đâu. Họ sẽ tự mình tỏ tình. Và họ cũng sẽ tự mình tìm lấy những nghề nghiệp thích hợp. Những ý nghĩ đó làm tôi vui lêm. Và tối nay tôi thật là vui, vì bạn Lucy yêu quý đã trông khá hơn. Tôi thật sự tin rằng bạn ấy đã vượt qua thời kỳ khó khăn, và chúng tôi không còn phải bận tâm về những giấc mơ của bạn ấy nữa. Tôi sẽ hạnh phúc hơn nếu như tôi có thể biết tin về Jonathan… Chúa phù hộ và giữ gìn cho anh.

Ngày 11 tháng 8. - Tôi lại viết nhật ký. Lúc này vẩn chưa buồn ngủ, và tôi vẩn có thể viết. Tôi quá xúc động đến nổi không thể ngủ được. Chúng tôi vừa trải một cuộc phiêu lưu, trải qua những biến cố kinh hòang. Tôi ngủ thiếp đi ngay khi tôi vừa đóng nhật ký lại. Thình lình tôi bừng tỉnh, ngồi dậy với một cảm giác kinh hòang khiến tôi kinh sợ, bao quanh tôi là một cảm giác trống vắng. Căn phòng tối đen, và tôi không thể nhìn thấy giường của Lucy. Tôi lẻn sang giường Lucy và sờ tìm bạn ấy. Chiếc giường trống rỗng. Tôi bật diêm và thấy bạn ấy chẳng có trong phòng. Cửa đóng nhưng không khóa, giống như trạng thái tôi đã làm hồi hôm. Tôi không dám đánh thức mẹ bạn ấy, vì gần đây bà ấy đau ốm luôn. Vì vậy tôi quàng vội quần áo và cuống cuồng đi kiếm bạn ấy. Khi tôi rời khỏi phòng, thình lình tôi nảy ra ý nghĩ là những quần áo bạn ấy mặc sẽ gợi ý cho tôi biết nơi bạn ấy định đi trong giấc mơ. Áo chòang và quần áo của bạn ấy vẩn y như cũ. "Lạy Chúa," tôi tự nhủ, "bạn ấy không thể đi xa khi mà chỉ mặc quần áo ngủ như vậy."

Tôi chạy vội xuống thang và nhìn vào phòng khách. Chẳng có ai! Rồi tôi tìm trong tất cả các căn phòng khác của căn nhà, với một nỗi sợ hãi càng lúc càng tăng làm tim tôi như thắt lại. Cuối cùng tôi chạy ra cửa chính và thấy nó đã mở ra. Cửa không mở rộng, nhưng không cài then. Mọi người trông nhà luôn cẩn thận kiểm tra cửa nẻo hàng đêm, và tôi sợ rằng bạn Lucy đã làm như vậy để ra ngòai. Không còn thời gian để nghĩ xem chuyển gì xảy ra nữa.Mỗi nỗi sợ hãi khủng khiếp mơ hồ đang chập chờn trong tôi.

Tôi lấy một cái khăn chòang lớn và chạy vội ra. Đồng hồ điểm một giờ khi tôi ở Crescent, và chẳng trông thấy ai. Tôi chạy lên Nền Đất Phía Bắc, và cũng chẳng hề thấy tăm hơi của cái bóng trắng mà tôi đang trông đợi. Đứng trên cạnh của Vách Đá Phía Tây trên bờ đê tôi nhìn xuyên qua hải cảng về phía Vách Đá Phía Đông, trông sự hy vọng hoặc sợ hãi mà chính tôi cũng không phân định rõ, là sẽ trông thấy Lucy tại chỗ ngồi quen thuộc của chúng tôi.

Đó là một đêm trăng tròn, sáng rực, với những đám mây đen dày trôi lượn, ném tòan bộ phong cảnh chìm vào một bức tranh phối cảnh giữa áng sáng và bóng tối khi chúng lướt qua. Trong một thóang tôi chẳng nhìn thấy gì, khi bóng đen của những đám mây phủ chung quanh nhà thờ Saint Mary và bao chung quanh nó. Khi những đám mây trôi qua, tôi có thể thấy cái tu viện hoang tàn đó lần lượt hiện ra, và ánh sáng trải ra thành một luồng hẹp sắc bén như một lưỡi gươm chuyển động xuyên qua khung cảng, soi sáng dần dần khu nhà thờ và nghĩa trang. Điều mong chờ của tôi đã không trở nên vô dụng, bởi vì, ngay tại chỗ mà chúng tôi thường dùng, ánh sáng bạc của mặt trăng đã rọi qua một hình người đang ngồi tựa xuống, trắng như tuyết. Mây trôi quá nhanh nên tôi chẳng nhìn thấy gì nhiều, vì ngay sau đó bóng tối đã phủ lên vùng sáng ngay tức khắc, nhưng lúc mà ánh sáng chiếu qua tôi thấy hình như là một bóng đen đứng phía sau chỗ mà cái bóng trắng kia đang ngồi và đang chồm lên nó. Nó là cái gì, người hay thú, tôi không thể khẳng định được.

Tôi không thể đợi đến khi ánh sáng có lại thêm một lần nữa, mà lao như bay xuống các bậc đê, băng qua chợ cá để đến cây cầu, đó là con đường duy nhất để đến Vách Đá Phía Tây. Thị trấn dường như đã chết lặng, chẳng hề có một bóng người. Điều này làm tôi vui mừng, vì tôi không muốn ai nhìn thấy tình cảnh hiện nay của bạn Lucy tội nghiệp. Thời gian và khỏang đường dài như vô tận, đầu gối tôi run lên, hơi thở trở nên nặng nhọc khi tôi cố gắng leo lên những bậc thang dài vô tận của tu viện. Tôi phải cố đi nhanh, và những bước chân leo lên của tôi trở nên vô cùng nặng nề, những khớp nối trên cơ thể tôi dường như muốn bung cả ra.

Khi lên đến đỉnh tôi có thể nhìn thấy tại chỗ ngồi quen thuộc của mình một cái bóng trắng, và lúc này tôi đã đến đủ gần để có thể phân biệt mọi vật trong tấm màn của bóng đêm. Không còn nghi ngờ gì nữa, có một vật gì đó, cao và đen đang chồm qua cái bóng trắng đang ngồi dựa kia. Tôi kêu lên trong hỏang hốt, "Lucy!Lucy!", rồi cái vật kia ngẩng đầu lên, từ chỗ mình tôi có thể thấy một khuôn mặt trắng và đỏ, đôi mắt lờ đờ.

Lucy không trả lời, và tôi chạy vội về lối đi chính của nghĩa địa. Khi tôi đi vào thì nhà thờ đã nằm giữa tôi và chỗ Lucy ngồi, nên trong một thoáng tôi không thể nhìn thấy bạn ấy. Khi tôi nhìn thấy được bạn ấy trở lại thì những đám mây đã bay đi, ánh trăng sáng rực giúp tôi có thể nhìn thấy đang ngồi dựa đầu vào phía sau chỗ ngồi. Bạn ấy chỉ có một mình, không có dấu hiệu nào về một sinh vật sống chung quanh bạn ấy.

Khi tôi cúi xuống xem xét bạn ấy, bạn ấy vẩn còn ngủ. Đôi môi của bạn ấy hé mở, và bạn ấy không thở nhẹ nhàng như thường lệ, mà là những hơi thở dài, nặng nhọc như muốn hít đầy không khí vào phổi mình sau mỗi nhịp thở. Khi tôi đến gần, bạn ấy giơ tay lên trong giấc ngủ và kéo cổ áo ngủ lại như thể đang cảm thấy lạnh. Tôi tung cái khăn chòang lên phủ ấm,buộc kín lại quanh cổ bạn ấy. Tôi sợ rằng bạn ấy sẽ gặp phải những sự nguy hiểm chết người khi đi ra ngòai mà không mặc đủ ấm trong đêm trăng lạnh lẽo này. Tôi chưa dám đánh thức bạn ấy lại vào lúc này, vì muốn tay mình được rảnh để giúp đỡ bạn ấy. Tôi vội vã quàng cái khăn chòang quanh cổ họng bạn ấy và cài lại thành bằng một cái ghim băng lớn. Nhưng do quá bối rối, tôi trở nên vụng về nên hình như là quẹt phải hay đâm phải nó vào bạn ấy, và ngay lúc đó, khi hơi thở của bạn ấy đã trở nên dịu hơn, bạn ấy giơ tay lên họng mình một lần nữa và khẽ rên rỉ. Khi tôi đã cẩn thận phủ ấm đầy đủ cho bạn ấy, tôi đi đôi giầy của tôi vào chân bạn ấy rồi bắt đầu dịu dàng đánh thức bạn ấy dậy.

Đầu tiên bạn ấy không trả lời, nhưng dần dần bạn ấy càng trở nên khó chịu hơn trong giấc ngủ, thỉnh thoảng lại rên rĩ và thở dài. Cuối cùng, do thời gian trôi nhanh cùng nhiều lý do khác, tôi lắc mạnh bạn ấy cho đến khi bạn ấy mở mắt và tỉnh dậy. Hình như bạn ấy không ngạc nhiên lắm khi thấy tôi, và tất nhiên bạn ấy chưa nhận ra được ngay là mình đang ở đâu.

Lucy luôn luôn có những cử chỉ duyên dáng, và thậm chí ngay lúc bấy giờ, khi mà cơ thể bạn ấy vẩn còn run rẩy vì cái lạnh, tâm trí bạn ấy phần nào hoảng loạn khi nhận ra mình đang đi trên nghĩa địa trong đêm mà chỉ mặc đồ ngủ, bạn ấy vẩn không mất đi vẻ duyên dáng của mình. Bạn ấy thóang rùng mình, rồi ôm chặt lấy tôi. Khi tôi nói với bạn ấy phải trở về nhà ngay với tôi, bạn ấy đứng dậy mà không nói lời nào, ngoan ngõan như một đứa trẻ. Khi chúng tôi đi, sỏi cứa vào chân tôi, và Lucy nhận thấy tôi nhăn mặt. Bạn ấy dừng lại, khăng khăng đòi tôi phải đi lại giày của mình, nhưng đừng hòng tôi nghe theo. Tuy nhiên, khi chúng tôi đi ra khỏi khu nghĩa địa, có một vũng nước nhỏ còn lại sau cơn bão, tôi nhúng chân tôi vào bùn, chân này rồi chân kia, do vậy khi chúng tôi đi về nhà thì không có ai, nếu như chúng tôi có gặp ai đó, có thể nhận ra là tôi đang đi chân không.

Vận may mỉm cười với chúng tôi, và chúng tôi về đến nhà mà chẳng gặp một ai cả. Có một lần chúng tôi thấy một người có vẻ như đang say rượu đi một mình trên đường phía trước chúng tôi. Nhưng chúng tôi trốn sau một cánh cửa cho đến khi anh ta biến mất trong một ngõ hẻm đâu đó, gần với chỗ vách đứng mà người Scotland gọi là "wynds". Tim tôi đập mạnh đến nỗi có những lúc tôi nghĩ mình sẽ quị mất. Tôi rất lo cho Lucy, không chỉ là chuyện sức khỏe của bạn ấy sẽ bị tổn hại như thế nào, mà còn làm sao cho chuyện này đừng để bị lộ, nếu không thì danh dự của bạn ấy sẽ gặp rắc rối với những kẻ ngồi lê đôi mách. Khi chúng tôi về đến nhà và đã rửa chân, chúng tôi cùng nhau cầu nguyện tạ ơn chúa, và tôi giục bạn ấy lên giường. Trước khi ngủ bạn ấy đã yêu cầu, thậm chí van nài tôi đừng nói một lời nào về chuyến phiêu lưu này với bất cứ ai, thậm chí với mẹ bạn ấy.

Đầu tiên tôi do dự trước khi hứa, nhưng tôi nghĩ đến tình trạng ốm đau hiện nay của mẹ bạn ấy, và những câu chuyện như thế này sẽ làm bà rất phiền muộn, và ngòai ra câu chuyện này sẽ còn bị bóp méo bởi những lời xuyên tạc khi nó được đồn đại ra ngòai. Tôi nghĩ không để lộ nó ra là một hành động khôn ngoan. Tôi hy vọng tôi đã làm đúng. Tôi khóa cửa và buộc chìa khóa vào cổ tay mình, do đó có thể tôi sẽ không còn bị xáo trộn nữa. Lucy đã ngủ say. Ánh bình minh đã phản chiếu từ trên cao ở ngòai biển khơi xa thẳm.

Cùng ngày, sáng sớm. – Mọi việc đều tốt đẹp. Lucy ngủ cho đến khi tôi đánh thức bạn ấy dậy và chẳng tỏ ra có gì khác lạ. Cuộc mạo hiểm đêm qua hình như chẳng có hại gì cho bạn ấy, ngược lại nó còn có lợi cho bạn ấy, vì vào sáng nay bạn ấy trông khá hơn cả tuần qua. Tôi rất tiếc khi nhận thấy sự vụng về của mình với cái cây ghim băng đã làm bạn ấy bị thương. Thật ra mọi việc có thể trở nên nghiêm trọng, vì làn da trên cổ họng bạn ấy bị trầy. Chắc là tôi đã chạm cây ghim băng vào một cùng da non và đâm xuyên qua nó, nên bây giờ có hai chấm đỏ giống như vết kim châm và trên dải băng áo ngủ của bạn ấy có vết một giọt máu. Khi tôi xin lỗi và lo lắng về điều này, bạn ấy cười phá lên và giả vờ giận dỗi tôi, nói rằng bạn ấy chẳng cảm thấy gì hết. Cũng may là vết thương này sẽ không để lại sẹo, vì nó nhỏ tí ti.

Cùng ngày, ban đêm – Chúng tôi trải qua một ngày đầy vui vẻ. Không khí thóang đãng, mặt trời lên cao, và những cơn gió lạnh. Chúng tôi ăn trưa ở Rừng Mulgrave, bà Westenra đi bằng xe lửa, còn Lucy và tôi đi bộ qua lối đi ở vách đá và gặp bà ở ga. Tôi cảm thấy buồn cho mình, vì không có được cảm giác hạnh phúc tuyệt đối khi có anh Jonathan bên mình. Nhưng thôi nào! Tôi phải kiên nhẫn mới được. Đến buổi chiều chúng tôi đi dạo ở Lối Đi Sòng Bài, nghe một buổi hòa nhạc rất hay của Spohr và Mackenzie, rồi đi ngủ sớm. Lucy có vẻ mệt hơn thường lệ và bạn ấy ngủ ngay. Tôi khóa lại cửa và cẩn thận giữ lại chìa khóa như đêm trước, dù tôi cho rằng tối nay sẽ chẳng có rắc tối nào.

Ngày 12 tháng 8. – Những điều tiên đóan của tôi đã sai lầm, vì hai lần tôi bị đánh thức trong đêm khi Lucy tìm cách ra ngòai. Mặc dù bạn ấy đang ngủ, bạn ấy thậm chí đã tỏ ra bực dọc khi phát hiện ra cửa bị khóa và trở về giường một cách vùng vằng. Tôi thức dậy vào lúc bình minh, lắng nghe tiếng chim hót ngòai cửa sổ. Lucy cũng thức dậy và tôi vui mừng khi thấy bạn ấy thậm chí trông còn khá hơn hôm qua. Tất cả những nét vui tươi quen thuộc đã trở lại với bạn ấy, bạn ấy đi qua và xích lại gần tôi, rồi nói với tôi mọi điều về Arthur. Tôi cũng nói với bạn ấy những điều phiền muộn của mình về chuyện anh Jonathan và bạn ấy tìm cách an ủi tôi. Trong một chừng mực nào đó thì bạn ấy cũng thành công, vì dù sự thông cảm không thể giải quyết được vấn đề, nó cũng làm cho con người thêm sức chịu đựng.

Ngày 13 tháng 8. - Lại một ngày khác lặng lẽ trôi qua, và tôi đi ngủ với chiếc chìa khóa buộc chặt ở cổ tay như trước. Một lần nữa tôi lại thức dậy trong đêm, và thấy Lucy đang ngồi dậy trên giường, vẩn đang ngủ, hướng về phía cửa sổ. Tôi nhẹ nhàng ngồi dậy, kéo tấm màn qua một bên và nhìn ra. Trăng sáng rực rỡ, và ánh trăng dịu dàng trải rộng trên bầu trời và biển cả trộn lẩn cùng điều bí ẩn kỳ lạ đang diễn ra trong đêm khuya trong thanh vắng khiến cho cảnh vật trở nên tuyệt đẹp mà không lời nào có thể tả xiết. Giữa tôi và ánh trăng kia là một con dơi khổng lồ đang bay lượn tới lui thành những vòng tròn lớn. Một hoặc hai lần nó bay đến thật gần, và tôi có cảm giác là nó đang nhìn tôi với vẻ đe dọa, rồi nó bay đi xuyên qua bến cảng về hướng thung lũng. Khi tôi từ cửa sổ quay lại Lucy đã nằm xuống trở lại và ngủ với dáng vẻ rất thanh thản. Bạn ấy không gây nên chuyện lộn xộn nào khác trong cả đêm.
Ngày 14 tháng 8. – Tôi đọc và viết trên Vách Đá Phía Tây suốt cả ngày. Lucy đã trở nên thích nơi này giống như tôi, và việc mang bạn ấy ra khỏi chỗ này khi đến giờ ăn trưa, dùng trà hay bữa chiều trở nên khó khăn. Khi chiều xuống thì bạn ấy thốt lên một ý tưởng rất buồn cười. Lúc này chúng tôi đang đi về nhà dùng bữa tối, và đang ở đỉnh Bến Tàu Phía Tây và dừng lại để nhìn ngắm cảnh vật như chúng tôi vẩn thường làm. Mặt trời đang lặn, chìm dần sau bầu trời Kettleness. Một thứ ánh sáng đỏ chiếu trên Vách Đá Phía Tây và cái tu viện cũ, và dường như nhúng tất cả mọi vật mà một ánh sáng hồng huyền ảo. Chúng tôi im lặng trong một thóang, rồi thình lình Lucy lẩm bẩm như đang nói với chính mình…

"Lại những con mắt đỏ của ông ta! Chúng vẩn ở đấy!" Sự diễn đạt này rất lạ lùng, xem ra chẳng ăn nhập gì với chung quanh, và điều này làm tôi giật mình. Tôi quay người nhìn quanh, và thấy rõ là chẳng có ai đang nhìn Lucy cả. Bạn ấy đang bắt đầu trở nên nữa mê man và vẻ mặt của bạn ấy trông thật là khác lạ mà tôi không sao hiểu được, do đó tôi không nói gì mà nhìn theo mắt bạn ấy. Bạn ấy có vẻ như đang nhìn về phía chỗ ngồi của chúng tôi, nơi có một bóng áo đen đang ngồi đơn độc. Tôi cảm thấy giật bắn người, khi trong một thóang tôi nhìn thấy người lạ mặt kia có đôi mắt lớn đỏ rực như những ngọn lửa, nhưng cái nhìn tiếp theo đã xua đi những ảo giác này. Những tia sáng đỏ đang chiếu sáng trên những khung cửa sổ của nhà thờ Saint Mary đằng sau chỗ ngồi của chúng tôi, và khi mặt trời chìm sâu thì nó tạo ra những hiện tượng khúc xạ và phản xạ gây ra những hiệu ứng đặc biệt. Tôi nói Lucy chú ý đến hiện tượng kỳ lạ này, bạn ấy tỏ ra có quan tâm, nhưng vẩn buồn bã như cũ. Có thể bạn ấy đang nghĩ về cái đêm kinh khủng kia. Chúng tôi chẳng bao giờ nhắc đến nó, và vì tôi chẳng nói gì, chúng tôi trở về nhà dùng bữa tối. Lucy nhức đầu và đi ngủ sớm. Tôi thấy bạn ấy đã ngủ rồi, bèn đi ra ngoại và đi dạo một lát.

Tôi đi bộ dọc theo những vách đá của bờ biển phía tây, và khi nghĩ đến Jonathan, lòng tôi lại tràn ngập một nỗi buồn man mác. Khi tôi về nhà, ánh trăng sáng rực, sáng đến nỗi tôi có thể nhìn thấy tường tận vùng Crescent trước mặt, dù nó đang chìm trong bóng đêm. Tôi liếc nhìn lên khung cửa sổ của chúng tôi, và thấy Lucy đang thò đầu ra. Tôi lấy khăn tay ra và vẫy bạn ấy. Bạn ấy dường như chẳng nhận ra và cũng chẳng làm một cử động gì. Lúc này ánh trăng tỏa quanh một góc tòa nhà, và ánh sáng chiếu thẳng vào cửa sổ. Lucy hiện ra rõ mồn một, đầu bạn ấy thò ra khỏi thành cửa sổ, mắt nhắm nghiền. Bạn ấy đang ngủ say, và tại chỗ bạn ấy ngồi cạnh cửa sổ có một cái gì đó giống như một con chim cỡ lớn. Tôi sợ bạn ấy lạnh, bèn chạy vội lên, nhưng khi tôi vào phòng thì bạn ấy đã trở về giường, ngủ say, thở một cách nặng nhọc. Bạn ấy giữ tay trên cổ họng, giống như đang bảo vệ nó khỏi giá lạnh.

Tôi không đánh thức bạn ấy, mà đắp ấm cho bạn ấy. Tôi kiểm tra kỹ cửa nẻo và cài then cửa sổ cẩn thận.

Bạn ấy trông thật là dễ thương trong lúc ngủ, nhưng bạn ấy trắng bệch hơn bình thường, và dưới mắt bạn ấy có một dáng vẻ buồn bã, bơ phờ mà tôi chẳng thích tí nào. Tôi sợ là bạn ấy gặp phải chuyện gì phiền muộn. Ước gì tôi biết được nó là cái gì.

Ngày 15 tháng 8. – Dậy muộn hơn thường lệ. Lucy trông uể oải và mệt mõi, khi mà chúng tôi được gọi dậy. Chờ đón chúng tôi tại bàn ăn sáng là một bất ngờ thú vị. Cha Arthur đã khá hơn, và muốn tổ chức đám cưới sớm. Lucy tràn ngập mừng vui, còn mẹ bạn ấy nữa vui nữa buồn. Sau đó bà đã nói cho tôi nghe nguyên nhân. Bà ấy buồn khi mất đi Lucy của riêng bà, nhưng bà vui mừng là bạn ấy đã sớm có người bảo bọc cho bạn ấy. Người đàn bà dịu dàng, đáng mến và tội nghiệp! Bà thổ lộ cho tôi biết rằng bà đã cảm thấy trát gọi của thần chết. Bà không nói cho Lucy biết và bắt tôi phải hứa giữ bí mật. Bác sĩ của bà đã nói cho bà biết nhiều nhất vài tháng nữa bà sẽ chết, vì tim bà đã yếu lắm rồi. Trước tình thế này, một cú sốc thình lình vào lúc này rõ ràng sẽ giết chết bà. A, chúng tôi quả thật là khôn ngoan khi giấu bà về cái đêm mộng du hãi hùng của Lucy.

Ngày 17 tháng 8. – Đã hai ngày nay tôi không đụng đến nhật ký. Tôi không còn tâm trí nào để viết nữa. Có vẻ như có một tấm màn u ám đang bao phủ lên hạnh phúc của chúng tôi. Không có tin tức gì từ Jonathan, còn Lucy thì càng yếu hơn, trong khi những giờ khắc còn lại của mẹ bạn ấy càng lúc càng cạn dần. Tôi không hiểu vì sao mà Lucy lại như vậy. Bạn ấy ăn tốt, ngủ ngon, hít thở không khí trong lành, nhưng theo thời gian vẻ hồng hào trên đôi má bạn ấy càng nhạt đi, bạn ấy yếu hơn và càng bơ phờ hơn ngày theo ngày. Đêm đêm tôi nghe bạn ấy thở hổn hển như cần không khí.

Cửa phòng chúng tôi luôn đóng chặt, và khi ngủ chìa khóa luôn đeo ở cổ tay tôi, nhưng bạn ấy thức giấc và đi lòng vòng khắp phòng, rồi ngồi bên cánh cửa sổ hé mở. Đêm hôm qua khi tôi tỉnh giấc tôi thấy bạn ấy chồm người ra, và tôi không thể nào cố thử đánh thức bạn ấy dậy được.

Bạn ất rất mệt mõi. Khi tôi cố làm bạn ấy thức giấc, bạn ấy yếu ớt như giọt nước, và hít thở những hơi khẽ, dài, đau khổ để tìm không khí. Khi tôi hỏi bạn ấy ngồi bên cửa sổ để làm gì, bạn ấy lắc đầu và quay đi.

Tôi tin là căn bệnh của bạn ấy không thể từ vết trầy vô tình gây ra bởi cái ghim băng kia được. Tôi nhìn vào cổ họng bạn ấy trong khi bạn ấy nằm ngủ, và vết thương nhỏ kia vẩn chưa lành. Chúng vẩn tiến triển, lớn hơn lúc trước, và cạnh của nó hình như có màu trắng đầy bệnh hoạn. Chúng trông như những chấm trắng bao quanh một chấm đỏ ở giữa. Nếu một hai ngày nữa mà nó vẩn chưa lành, tôi nhất định phải gọi bác sĩ đến xem xét chúng.

THƯ TỪ SAMUEL F.BILLINGTON VÀ CON TRAI, LUẬT SƯ WHITBY, GỬI CHO MESSRS. CARTER, PATERSON VÀ CÔNG TY, LONDON.

Ngày 17 tháng 8

" Kính thưa Quý Ngài,

"Tôi xin vui mừng báo ngài rằng tôi đã nhận được những hóa đơn cho chuyến hàng gửi bởi Hãng Xe lửa Vĩ đại Phương Bắc. Chúng cũng được gửi đến Carfax, gần Purfleet, ngay theo hóa đơn tại trạm chuyển Chữ Thập Vua đáng tin cậy. Ngôi nhà lúc này đã trống rỗng, nhưng xin gửi kèm những chìa khóa đã được dán nhãn rõ ràng.

"Quí ngài sẽ nhận được những cái hộp, mà số lượng ghi trên hóa đơn vận chuyển là mười lăm cái, nằm trong một phần bị hư hại của tòan nhà, được đánh dấu chữ 'A' trong sơ đồ gửi kèm. Nhân viên của quí ngài sẽ dễ dàng tìm được nơi này, đó là một nhà thờ cổ trong lâu đài. Hàng hóa được chuyển đi bằng xe lửa lúc 9:30 tối nay, và sẽ đến Chữ Thập Vua lúc 4:30 sáng mai. Vì khách hàng của chúng ta muốn việc chuyển hàng diễn ra càng nhanh càng tốt, chúng ta bắt buộc phải sắp xếp sao cho người của quí ngài phải sẳn sàng tại Chữ Thập Vua theo giờ đã định và ngay lập tức mang hàng hóa đến đích. Để loại trừ mọi sự chậm trễ có thể xảy ra, xin quí ngài hãy hoãn lại những công việc đã định trước vào lúc đó, chúng tôi xin gửi kèm quí ngài tấm chi phiếu 10 bảng ngay lúc này, xin quí ngài vui lòng báo lại khi nhận được hóa đơn. Nếu công việc tốn kém ít hơn, xin quí ngài gửi trả số tiền thừa, còn nếu nhiều hơn, chúng tôi sẽ lập tức gửi tiếp tờ chi phiếu khác khi có tin của quí ngài. Xin quí ngài hãy để lại chìa khóa trên lối đi vào tiền sảnh của tòa nhà, chủ nhân của ngôi nhà này sẽ nhận lại nó khi ông ta vào nhà bằng chiếc chìa khóa thứ hai.

"Xin đừng nghĩ là chúng tôi đã phóng đại tầm vóc của công việc khi yêu cầu quí ngài hãy khẩn trương đến mức tối đa bằng mọi cách có thể được. "Xin dừng bút, thưa Quý Ngài, "Trân trọng,"SAMUEL F.BILLINGTON & SON"

THƯ CỦA MESSRS. CARTER, PATERSON & CÔNG TY, LONDON, GỬI CHO MESSRS. BILLINGTON & CON TRAI, WHITBY.

Ngài 21 tháng8.

"Kính thưa Quí Ngài,

"Chúng tôi xin được phản hồi là đã nhận được 10 bảng và gửi trả về chi phiếu 1 bảng 17s, 9d tiền thừa, được ghi rõ trong hóa đơn kèm theo. Hàng hóa đã được phân phối chính xác theo chỉ dẩn, và chìa khóa được để lại dưới tấm thảm trong phòng chính như quí ngài mong muốn. "Xin được dừng bút, thưa Quí Ngài," Trân trọng, "Pro CARTER, PATERSON & CÔNG TY."

NHẬT KÝ CỦA MINA MURRAY.

Ngày 18 tháng Tám. – Hôm nay tôi rất vui, và tôi đang ngồi viết tại chỗ ngồi quen thuộc của mình trên khu nghĩa địa. Lucy đã khỏe mạnh hơn bao giờ hết. Tối qua bạn ấy ngủ ngon suốt cả đêm và chẳng hề quấy rầy tôi.

Vẻ hồng hào đã trở về trên đôi má của bạn ấy, dù bạn ấy vẩn còn tái xanh ốm yếu và trông rất vàng vọt. Nếu bạn ấy bị thiếu máu bởi một nguyên nhân nào đó thì tôi còn có thể hiểu được, đằng này bạn ấy đâu có sao. Bạn ấy đang lên tinh thần, rất yêu đời và vui sướng. Căn bệnh tiềm tàng hình như đã bắt đầu lánh xa bạn ấy, và nhìn bạn ấy lúc này chỉ còn gợi tôi nhớ lại, nếu như tôi còn chút gì để nhớ, về cái đêm hôm ấy, và tại nơi đây, chính tại nơi này, tôi thấy bạn ấy đang ngủ.

Bạn ấy vừa cố rút một hòn đá trong giày đang đâm vào gót chân của bạn ấy vừa nói,

"Cái chân tội nghiệp của mình làm phiền mình quá! Mình dám chắc là ông bạn già tội nghiệp Swales đang nói chuyện với mình vì mình không muốn quấy rầy Geordie."

Thấy bạn ấy đang ở trong tâm trạng cởi mở, tôi hỏi bạn ấy xem đêm đêm bạn ấy mơ thấy những gì,

Trước khi bạn ấy trả lời, trán bạn ấy nhăn lại theo một nét cau mày đáng yêu. Arthur, tôi gọi anh ấy là Arthur theo ý thích của Lucy, đã từng nói rằng anh ta đã yêu bạn ấy qua cử chỉ này, thực sự là điều này chẳng hề làm tôi ngạc nhiên. Đoạn bạn ấy trở nên nữa mơ mộng như thể đang cố phục hồi ký ức của mình.

"Mình chẳng có mơ đâu, mà tất cả dường như đang diễn ra thật sự đấy. Mình chỉ muốn trở về nơi đây. Mình chẳng biết vì sao, dù mình lại đang sợ hãi một cái gì đó mà mình cũng không biết là cái gì. Mình còn nhớ, dù lúc đó mình còn đang ngủ, là mình đi ngang những con đường và đi qua cây cầu. Một con cá nhảy lên trên đường, và mình trườn người tới để ngắm nó, và mình nghe thấy rất nhiều tiếng chó tru. Cả thị trấn lúc ấy dường như phủ đầy tiếng chó tru, và mình lại tiếp tục đi lên. Rồi diễn ra mơ hồ trong ký ức mình là một cái gì đó cao và đen với đôi mắt đỏ rực như là khi chúng ta thấy trong hòang hôn, rồi một cái gì đó vừa ngọt ngào vừa cay đắng vờn quanh mình cùng lúc. Rồi mình cảm thấy như đang chìm vào một hồ nước xanh, rồi có những tiếng hát vang lên bên tai mình, mà mình cảm thấy là bài hát dành cho những người chết đuối, và mọi thứ đang dần rời xa mình. Linh hồn của mình dường như đã rời khỏi thể xác và bay lơ lững trên không trung. Mình nhớ là lúc đó Ngọn Hải Đăng phía Tây nằm ở ngay dưới mình, và lúc đó mình có một cảm giác đau đớn kỳ lạ, giống như là mình đang ở trong một cơn động đất, mình quay trở lại và nhìn thấy bạn đang lay cơ thể mình. Mình thấy bạn trước khi mình cảm thấy bạn."

Bạn ấy bắt đầu cười. Tôi cảm thấy là có một cái gì đó rất là lạ, và tôi lắng nghe tiếng cười hổn hển của bạn ấy. Tôi không thích điều này chút nào, tốt hơn đừng để cho bạn ấy bận tâm về những chuyện như vậy nữa, và chúng tôi bắt đầu chuyển sang những chủ đề khác, và Lucy lại cảm thấy yêu đời hơn. Khi chúng tôi về nhà, khí trời đã khuyến khích bạn ấy, và đôi má trắng bệch của bạn ấy lại ửng hồng. Mẹ bạn ấy rất vui khi thấy bạn ấy, và chúng tôi đã trải qua một buổi tối vui vẻ cùng nhau.

Ngày 19 tháng 8. - Vui, vui, thật là vui! Mặc dù không phải mọi chuyện đều đáng vui. Cuối cùng, đã có tin tức của anh Jonathan. Anh chàng tội nghiệp ấy đang bệnh, và đó là lý do vì sao anh ấy chẳng hề viết thư. Bây giờ thì tôi không còn lo lắng khi nghĩ hay nói về anh ấy. Ngài Hawkins đã gửi đến tôi một lá thư và còn tử tế viết thêm mấy dòng. Trong buổi sang nay tôi sẽ đi đến chỗ anh Jonathan, giúp đỡ chăm sóc cho anh ấy nếu có thể và mang anh ấy trở về. Ngài Hawkins nói rằng cũng chẳng có gì dở nếu chúng tôi cưới nhau luôn ở đấy. Tôi đã khóc suốt với bức thư mà một người nữ tu tốt bụng đã gửi đến cho tôi đến nỗi tôi cảm thấy ngực áo mình, nơi mà mình để lá thư vào, ướt đẩm. Nó là của anh Jonathan, và nó phải nằm gần trái tim tôi. Cuộc hành trình của tôi đã được họach định, hành lý đã sẳn sàng. Chỉ có lại quần áo của tôi mà thôi. Lucy sẽ mang hòm rương của tôi tới London và giữ nó đến khi tôi cần lại nó, có thể cho dịp… Tôi phải không được viết nữa. Tôi cần phải giữ nó để nói với anh Jonathan, người chồng của em. Lá thư mà anh ấy đã đọc và chạm lấy sẽ an ủi tôi cho đến khi chúng tôi gặp nhau.

THƯ CỦA DÌ PHƯỚC AGATHA, BỆNH VIỆN THÁNH JOSEPH VÀ THÁNH NỮ MARY BUPA-PESH, GỬI CHO CÔ WILLHELMINA MURRAY.

Ngày 12 tháng 8,

"Kính thưa Cô.

"Tôi viết lá thư này theo yêu cầu của ngài Jonathan Harker. Ông ấy đang ốm và không thể tự tay mình viết được, dù nhờ ơn Chúa, thánh Joseph và thánh nữ Mary, bệnh tình ông ấy đang tiến triển tốt đẹp. Ông ấy bị một cơn sốt não, và chúng tôi đã chăm sóc cho ông ấy được sáu tuần. Ông ấy nhờ tôi chuyển đến cô tình yêu của ông ấy, và cũng nhờ tôi chuyển hộ lời đến ngài Peter Hawkins, Exeter, với tất cả sự kính trọng, rằng ông ấy rất tiếc về sự chậm trễ này, nhưng tất cả công việc đã hòan tất. Ông ấy cần phải nghĩ ngơi vài tuần tại viện điều dưỡng trên đồi của chúng tôi, nhưng sẽ trở về ngay. Ông ấy cũng nhờ tôi nói hộ rằng ông ấy không có đủ tiền, và ông ấy muốn trả tiền cho những phí tổn của mình ở đây, ngõ hầu chúng tôi có thể cưu mang những người khác.

Xin hãy tin tưởng tôi,

Với tất cả niềm tin và lời chúc tốt lành, Sơ Agatha"

"T.B – Bệnh nhân của tôi đã ngủ, và tôi lại mở lá thư này ra để thêm vào một đôi điều. Ông ấy nói với tôi tất cả về cô, và cô sẽ trở thành vợ ông ấy trong một thời gian ngắn nữa. Xin chúc mừng cả hai! Bác sĩ của chúng tôi nói rằng ông ấy đã trải qua một cú sốc kinh hòang, và trong cơn mê sảng ông ấy thường hay nói về những sự việc hãi hùng, bao gồm chó sói, chất độc và máu, gồm ma và ác quỷ, và tôi rất sợ khi nói về những điều này. Hãy luôn để mắt đến ông ấy và đừng để ông ấy bị khích động trong một thời gian dài. Những gốc rễ của căn bệnh này không thể loại trừ dễ dàng. Đáng lý chúng tôi viết thư sớm hơn, nhưng chúng tôi không biết gì về bạn bè của ông ấy, và ông ấy cũng không cho biết được điều gì, bất cứ điều gì mà một người nào đó có thể hiểu. Ông ấy đến trên chuyến xe lửa từ Klausenburg, và những người bảo vệ được trưởng ga ở đấy nói rằng ông ta lao vào ga và gào lên đòi một vé trở về. Qua dáng vẻ điên cuồng của ông ta, người ta nhận ra rằng ông ta là người Anh, và họ cho ông một vé đến nhà ga xa nhất mà chuyến xe đi đến.

"Hãy tin chắc là ông ấy được chăm sóc tốt. Ông ấy đã chinh phục được trái tim của tất cả mọi người với vẻ dịu dàng và tao nhã của mình. Ông ấy thật sự đang khỏe dần, và tôi không hề nghi ngờ là ông ấy sẽ hồi phục hoàn toàn trong vài tuần tới. Nhưng hãy cẩn thận chăm sóc ông ấy để đảm bảo mọi sự. Và tôi xin cầu nguyện Chúa, thánh Joseph và thánh mẹ Mary cho hai bạn được nhiều, thật nhiều năm hạnh phúc."

NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD

Ngày 19 tháng Tám. – Renfield vừa có một biểu hiện lạ lùng và đột ngột tối hôm qua. Vào khỏang tám giờ ông ta bắt đầu trở nên kích động và hít ngửi như một con chó. Những người phục vụ chú ý tới dáng vẻ của ông ta, và biết tôi đang rất quan tâm đến ông, nên khuyến khích ông nói chuyện. Ông ấy luôn tỏ ra kính trọng những người phục vụ và đôi khi cả những người nô lệ, nhưng tối nay, mọi người nói với tôi là ông ta tỏ ra rất kiêu kỳ. Ông ấy không thèm hạ mình nói chuyện với ai cả.

Tất cả những gì ông ấy nói là, "Tôi không muốn nói chuyện với các người. Các người không xứng đáng. Chỉ có Ông Chủ mà thôi."

Những người phục vụ nghĩ rằng ông ta đang bị xâm chiếm bởi một chứng cuồng tín tôn giáo nào đó. Nếu đúng vậy thì chúng tôi lại càng phải canh chừng mọi biến cố, vì một người đàn ông khỏe mạnh lại có chứng cuồng sát và cuồng tín tôn giáo thì vô cùng nguy hiểm. Sự kết hợp hai tính cách trên sẽ trở thành một thảm họa khôn lường.

Đến chín giờ thì tôi đích thân đến thăm ông ta. Dưới mắt ông ta tôi cũng như những người phục vụ. Trong cảm giác đường bệ mà ông ta tự cảm thấy về mình thì sự khác nhau giữa tôi và những người phục vụ là hoàn toàn không có. Quả thật đó là một chứng cuồng tín tôn giáo, và ông ta đang sớm nghĩ mình chính là Chúa Trời.

Sự khác nhau giữa cơ man người với người là không đáng lưu tâm đối với Đấng Tòan Năng. Đã có bao nhiêu người điên tự nhủ lòng như thế! Chúa Trời thật sự luôn cẩn thận lưu tâm để một con sẻ nhỏ cũng chẳng bị rơi. Còn Chúa Trời được tạo ra từ sự phù phiếm của lòai người thì không thấy sự khác nhau giữa đại bàng và chim sẻ. Ôi, phải chi chỉ cần con người biết được điều này!

Đã nữa giờ trôi qua và Renfield càng lúc càng trở nên kích động. Tôi không giả vờ không chú ý đến ông ta, mà tôi giữ một cái nhìn nghiêm khắc trên tất cả mọi việc. Nhìn thẳng vào đôi mắt gian xảo của người điên, chúng ta luôn luôn biết được khi nào thì ông ta có một ý định nào đó, và những chuyển động lươn lẹo của cái đầu và lưng ông ta giúp những người phục vụ nắm bắt được điều đó. Ông ta bắt đầu trở nên trầm lặng hơn, rồi đi đến và ngồi bên cạnh giường với vẻ cam chịu, rồi nhìn vào khỏang không với một cặp mắt thiếu sinh khí.

Tôi nghĩ là tôi cần tìm xem sự thờ ơ của ông ta là thật hay giả tạo, nên tôi thử bắt chuyện với ông ta về những con thú nuôi của ông ta, việc đề cập đến đề tài này không bao giờ thất bại trong việc kích động sự chú ý của ông ta.

Đầu tiên ông ấy không trả lời, sau đó thì dài giọng với vẻ khó chịu, "Mặc xác chúng! Tôi không buồn quan tâm đến chúng nữa."
"Sao" tôi nói. "Ông muốn nói với tôi rằng ông không thèm chú ý gì đến lũ nhện nữa à?" (Nhện lúc này đang là sở thích của ông ta và quyển sổ tay của ông ta viết đầy những cột số nhỏ."

Ông ấy trả lời một cách khó hiểu. "Trong mắt những cô gái trẻ sắp lấy chồng lần đầu tràn ngập niềm vui sắp trở thành cô dâu. Nhưng khi ngày cưới đến gần, thì niềm vui không còn hoàn toàn sáng rực trong mắt họ nữa."

Ông ấy không chịu giải thích gì, và bướng bĩnh ngồi tại chỗ của mình trong suốt thời gian tôi ngồi lại với ông ta.

Tôi đang rất mệt mõi và xuống tinh thần. Tôi không thể không nghĩ về Lucy, và bao nhiêu biến cố khác nhau đã xảy ra. Nếu tôi không ngủ được ngay, tôi sẽ dùng đến các loại thuốc ngủ hiện đại và hiệu nghiệm nhất! Phải cẩn thận nếu không tôi sẽ trở nên nghiện mất. Không, tối nay tôi sẽ không dùng đến nó! Nếu tôi nghĩ về Lucy, thì điều đó cũng không thể làm hại cô ấy. Nếu cần, đêm nay không ngủ cũng được.

Đêm khuya. – Sau khi đã có một quyết định dứt khóat, tôi cảm thấy trở nên thanh thản hơn. Tôi nằm trằn trọc cho đến khi nghe đồng hồ điểm hai tiếng, và người gác đêm chạy đến chỗ tôi, thò đầu lên từ phía tường, và nói rằng Renfield đã bỏ trốn. Tôi mặc quần áo và lao ra ngay. Người bệnh của tôi nếu để đi lang thang thì sẽ rất nguy hiểm. Những ý tưởng kỳ quặc của ông ta khi thi hành sẽ rất nguy hiểm cho những người lạ mặt.

Người phục vụ đang đợi tôi. Anh ta nói anh ta còn thấy ông ta mười phút trước, có vẻ như đang ngủ trên giường khi anh ta nhìn qua cái cửa sập dùng để quan sát trên cửa. Sau đó thì anh ta chợt nghe thấy tiếng cánh cửa sổ bị vặn ra. Anh ta chạy lại và nhìn thấy những dấu vết của ông ấy biến mất ngòai cửa sổ và ngay lập tức cho gọi tôi. Ông ta chỉ đang mặc bộ đồ ngủ và không thể đi đâu xa.

Người phục vụ đáng lý có lẽ hữu dụng hơn khi đuổi theo ông ta ngay thay vì chỉ đứng quan sát, nếu như anh ta có thể làm giảm trọng chính mình lúc cố len người qua sửa sổ. Anh ta là một người lực lưỡng, và không thể leo qua cửa sổ được.

Tôi là một người mảnh dẻ, và với sự trợ giúp của anh ta, tôi leo ra ngoài cửa sổ, nhưng thòng chân xuống trước. Cửa sổ chỉ cao hơn mặt đất vài bộ và tôi nhảy xuống chẳng bị thương tích gì.

Người phục vụ nói với tôi là bệnh nhân đã rẽ trái rồi chạy thẳng, và tôi cố hết sức chạy thật nhanh theo. Khi tôi rẽ trái qua đám cây, tôi thấy một bóng trắng trên bức tường ngăn cách vùng đất của tôi với ngôi nhà hoang.

Tôi chạy trở về ngay, gọi người canh gác lấy thêm ba hoặc bốn người nữa ngay và đi theo tôi đến vùng đất Carfax, đề phòng trường hợp người bạn của chúng tôi có thể trở nên nguy hiểm. Tôi lấy một cái thang, leo qua tường, nhảy xuống phía bên kia. Tôi còn có thể thấy bóng Renfield biến mất sau một góc nhà, và tôi chạy đuổi theo anh ta. Ở góc xa của ngôi nhà tôi thấy ông ta đang cố đóng lại cái cửa bằng gỗ sồi có khung thép của nhà thờ.

Ông ta có vẻ đang nói chuyện với ai đó, nhưng tôi sợ là nếu tôi đến gần để nghe ông ta nói, thì ông ta lại sợ hãi khi trông thấy tôi và lại chạy mất.

Săn đuổi một bầy ong lang thang chả thấm thía gì so với việc đuổi theo một người mất trí không mặc quần áo, nhất là khi cơ hội trốn thóat nằm trong tay ông ta! Tuy nhiên, sau vài phút, tôi nhận thấy là ông ta hình như chẳng để ý gì đến mọi việc chung quanh mình, tôi bèn mạo hiểm áp sát lại ông ta, tôi tiến lại gần hơn nữa, băng ngang qua tường và tiến sát bên ông. Tôi nghe ông ta nói…

"Tôi đến đây để van nài ngài, Ông Chủ. Tôi là đầy tớ của ngài, và ngài sẽ ban thưởng cho tôi, vì tôi đã rất trung thành. Tôi tôn thờ ngài đã từ lâu dù vô cùng cách biệt. Bây giờ ngài đã đến, và tôi đang đợi lệnh ngài, và ngài sẽ không bỏ rơi tôi, thưa ngài, Ông Chủ kính mến, với những ân sủng của ngài?"

Ông ta là một người ăn mày già ích kỷ, trong một chừng mực nào đó. Ông ta đang nghĩ mình đang ở một buổi Thiết triều thật sự và đang nghĩ đến bánh mì và cá. Những cơn điên cuồng của ông ta đang hợp nhất lại. Khi chúng tôi đến gần ông, ông giống như một con hổ. Ông ta khỏe kinh hồn, trông ông giống như một con thú hoang hơn là một con người.

Tôi chưa bao giờ thấy cơn giận dữ bộc phát của một người mất trí trước đây, và tôi hy vọng là sẽ không thấy nó lại lần nữa. Cũng may là chúng tôi đã lường trước đến sức mạnh và sự hung dữ của ông ta ta. Với sức mạnh và tính kiên nghị của ông ta, ông ta có thể làm nhiều chuyện tày trời trước khi bị tóm trở lại.

Với bất kỳ giá nào, lúc này phải giữ ông ta ở một nơi an tòan.Ngay cả Jack Sheppard cũng không thể thóat khỏi cái áo trói kìm giữ ông, và ông ta bị xích vào tường trong một phòng cách ly.

Đôi khi ông ta gào thét một cách rất kinh khiếp, nhưng sự im lặng tiếp theo đó còn đáng hãi hơn, vì hình như ông ta giống như một tên sát nhân trong mọi hành vi và cử chỉ.

Ngay khi đó ông ta thốt lên một tràng. "Tôi sẽ kiên nhẫn, Ông Chủ. Nó đang đến, đang đến, đang đến.!"

Bây giờ sẽ đưa ra một lời chú thích, rồi sẽ cũng đi. Tôi quá mệt rồi, tôi cần phải ngủ, nhưng quyển nhật ký này cứ làm rộn tôi, tôi cảm thấy tối nay nhất định tôi sẽ ngủ được một chút.
Về Đầu Trang Go down
Ku.Péo
Thành viên V.I.P
Thành viên V.I.P
Ku.Péo


Points : 745
Bạn được Thanks: : 1
Join date : 25/09/2009
Age : 30
Đến từ : Trung Quốc
Humor : Funny Face ^^

Ác quỉ Dracula - Chương 7-8-9-10-11 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác quỉ Dracula - Chương 7-8-9-10-11   Ác quỉ Dracula - Chương 7-8-9-10-11 Icon_minitime11/10/2009, 5:37 pm

Ác quỉ Dracula - Chương 9

THƯ CỦA MINA HARKER GỬI LUCY WESTENRA.

Buda-Pesh, ngày 24 tháng 8.

"Bạn Lucy thân yêu,

"Mình biết bạn đang rất khao khát được nghe những gì đã diễn ra từ khi chúng ta chia tay ở nhà ga xe lửa vùng Whitby.

"Thế đấy, bạn thân yêu ạ, mình đến Hull và từ đó đáp tàu đi Hamburg, rồi từ đó tiếp tục đi xe lửa. Mình cảm thấy là mình khó mà nhớ lại được những gì diễn ra trong chuyến đi, chỉ trừ một điều là mình đang đến với anh Jonathan, và lúc đó mình sẽ chăm sóc cho anh ấy, tốt nhất là mình cố gắng ngủ vậy. Mình đã tìm thấy người yêu của mình, gầy gò, tái xanh và bệnh tật. Đôi mắt thân thương của anh ấy đã không còn sự kiên quyết, và có thể nói là anh ấy hầu như đã đánh mất mình. Anh ấy chỉ còn là cái bóng của chính mình, và anh ấy chẳng nhớ gì xảy ra cho anh ấy trong một khỏang thời gian dài. Cuối cùng, anh ấy muốn mình hãy tin như vậy, và mình không hỏi anh ấy thêm điều gì.

"Anh ấy đã trải qua một cơn sốc hãi hùng, và mình sợ là nó có thể khiến cho bộ não tội nghiệp của anh ấy thêm nặng nề nếu anh ấy cố nhớ lại về nó. Sơ Agatha, người có thiên hướng nhân từ và tốt bụng bẩm sinh đã nói với mình là anh ấy muốn bà ấy kể lại cho mình nghe những gì họ đã trải qua, nhưng bà chỉ làm dấu thánh và nói rằng bà sẽ không bao giờ kể lại. Những lời nói trong cơn mê sảng là bí mật của Chúa, và một người y tá sẽ không làm tròn chức năng của mình nếu họ cố gắng nghe trộm những lời ấy.

"Bà ấy có một tâm hồn chứa chan tình cảm và tốt bụng, và qua ngày hôm sau, thấy mình vẩn còn run sợ, bà ấy bèn hé mở những điều mà anh Jonathan thân yêu tội nghiệp đã mê sảng, và thêm vào, 'Ta có thể nói với con nhiều thứ, con yêu. Anh ấy chẳng làm điều gì lầm lỗi cả, và với tư cách là vợ anh ấy, con không có gì phải lo lắng cả. Anh ấy đã không quên con, về những gì anh ấy đã hứa với con. Nỗi sợ hãi của anh ấy có nguyên nhân từ những điều khủng khiếp ghê gớm mà không một con người nào có thể hiểu được.

"Mình tin rằng sâu thẳm trong tâm hồn của mình vẩn còn sự ghen tuông khi cho rằng anh ấy có thể đã yêu một cô gái khác. Thật là kỳ khi mình lại có ý ghen về anh Jonathan! Và, nghe mình này, bạn thân yêu, mình nói nhỏ nhé, mình cảm thấy tràn ngập niềm vui khi biết rằng không phải một người phụ nữ nào khác gây ra những sự lo sợ này. Bây giờ mình đang ngồi cạnh anh ấy, và mình có thể vẻ mặt của anh ấy trong khi anh ấy ngủ. Anh ấy đang thức dậy!

"Khi anh ấy đang thức dậy, anh nói mình mang cho anh ấy cái áo khoác của anh ấy, vì anh ấy muốn lấy cái gì đó trong túi ra. Mình hỏi sơ Agatha, và bà ấy mang đến tất cả những gì của anh ấy. Mình nhìn thấy quyển sổ ghi chép của anh ấy trong số chúng, và nói anh ấy cho mình xem qua nó vì mình biết là nó sẽ cho mình một số chỉ dẩn về nỗi kinh hãi của anh ấy. Mình tin rằng anh ấy đã trông thấy mong ước thiết tha trong mắt mình, nên anh ấy nói mình hãy ra cửa sổ, anh ấy muốn được ở một mình một lúc.

"Rồi anh ấy gọi mình trở lại, và anh ấy nói với một vẻ rất trịnh trọng 'Wilhelmina', mình biết là anh ấy hoàn toàn nghiêm túc, bởi vì anh ấy chưa hề gọi mình như thế kể từ khi anh ấy cầu hôn mình, "Em thân yêu, em cũng biết là anh luôn cho rằng người chồng và người vợ phải luôn tin tưởng nhau, không có điều gì bí mật, không có gì phải che đậy. Anh đã trải qua một cú sốc hãi hùng, và khi anh cố gắng nghĩ xem điều đó là gì anh luôn cảm thấy đầu óc mình quay cuồng, và anh cũng không biết đấy là sự thật hay chỉ là giấc mộng của một người điên. Em cũng biết là anh trải qua một cơn sốt nặng, và rất có thể là anh trở nên điên mất. Điều bí mật đang nằm trong đây, và anh chẳng hề muốn biết nó. Anh muốn tiếp tục cuộc sống của mình với tình yêu của chúng ta.'Vì vậy, anh thân yêu, chúng ta sẽ cưới ngay khi mọi thủ tục đều hòan tất.'Em muốn chia xẻ những điều dại khờ của anh ư, Wilhemina? Đây, cuốn sách ấy đây. Em hãy cầm lấy và giữ nó, hãy đọc nó nếu em muốn, nhưng đừng bao giờ cho anh biết trừ khi thật sự có những nghĩa vụ bắt buộc nào đó khiến anh buộc phải quay lại những giây phút kinh hòang này, tất cả những điều xảy ra với anh, lúc anh đang thức hay ngủ, tỉnh hay điên, đều được ghi lại nơi đây.' Anh ấy kiệt sức trở lại, và mình nhét cuốn sổ vào dưới gối anh, rồi hôn anh ấy, sau đó mình nhờ xơ Agatha thỉnh cầu Ơn Trên cho phép chúng mình làm đám cưới ngay chiều nay, và mình đang chờ sự trả lời của bà ấy…"

"Bà ấy đã quay lại và nói với mình rằng Giáo sĩ của nhà thờ truyền giáo Anh quốc đã trả lời. Chúng mình sẽ cưới trong một giờ nữa, hoặc là ngay khi Jonathan tỉnh giấc."

"Lucy, thế là mọi việc đã diễn ra rồi. Mình cảm thấy rất là bối rối, nhưng rất, rất hạnh phúc. Anh Jonathan tỉnh lại sau hơn một giờ, và đã hoàn toàn sẳn sàng. Anh ấy ngồi trên giường, tựa vào gối. Anh ấy trả lời 'tôi đồng ý' một cách mạnh mẽ và cương quyết. Mình không thể nói gì. Trái tim mình ngập tràn cảm xúc đến nỗi mình sẽ bị nghẹn mất nếu thốt lên dù chỉ một lời.

'Những dì phước ở đây thật là tốt bụng. Xin Chúa hãy phù hộ cho mình không bao giờ, không bao giờ quên họ, hay quên đi những trách nhiệm ngọt ngào và dũng cảm mà mình đã tự đặt ra cho bản thân. Mình phải nói với bạn là đám cưới của mình đã cử hành. Khi giáo sĩ và những dì phước để mình ở lại một mình với chồng của mình – ôi Lucy bạn ơi, đây là lần đầu tiên mình viết từ 'chồng của mình' đấy nhé – để mình ở lại một mình với chồng của mình, mình lấy cuốn sổ dưới gối anh ấy ra, bọc nó bằng một tờ giấy trắng, dùng dãi ruy băng xanh nhạt mình đang đeo quanh cổ cột quanh nó thành một cái nơ, niêm phong lại bằng sáp ong, và con dấu niêm phong là chiếc nhẫn cưới của mình. Đoạn mình hôn nó và chỉ nó cho chồng mình. Mình nói rằng đấy sẽ là bằng chứng sống động và rõ ràng trong cuộc sống của chúng mình rằng chúng mình sẽ luôn tin tưởng lẫn nhau, và mình sẽ không bao giờ mở nó ra trừ phi nếu anh ấy thật sự cần, hay vì một yêu cầu khẩn thiết nào khác. Rồi anh ấy cầm lấy tay mình, và Lucy ơi, đấy là lần đầu tiên anh ấy cầm tay vợ anh ấy, nói rằng đó là điều thân thương nhất trên trái đất này, và anh ấy sẳn sàng chịu đựng lại tất cả những gì đã xảy ra trong quá khứ một lần nữa để có được nó, nếu cần. Con người đáng yêu tội nghiệp của mình có vẻ như đã cắt đứt hoàn toàn với quá khứ, và thậm chí anh ấy cũng chẳng nhớ nỗi đến ngày tháng, và mình sẽ chẳng ngạc nhiên đâu nếu như anh ấy nhầm lẫn không phải là hàng tháng mà là cả năm.

"Thế đấy, bạn thân yêu, mình vừa nói gì nhỉ? Mình chỉ nói với bạn rằng mình là người phụ nữ tốt hạnh phúc nhất trên thế giới rộng lớn này, và mình chẳng có gì để dâng hiến cho anh ấy ngoại trừ cuộc sống của mình, niềm tin của mình và cùng với nó là tất cả tình yêu và bổn phận của mình trong tòan bộ những tháng ngày đằng đẵng của cuộc sống. Và, bạn thân yêu ơi, khi anh ấy hôn mình, khi anh ấy ôm lấy mình trong vòng tay yếu đuối đáng thương của anh ấy, thì điều đó dường như là lời đính ước trọng thể của hai đứa mình.

"Lucy thân yêu, bạn có biết vì sao mà mình nói với bạn tất cả không? Không chỉ vì tất cả đã diễn ra quá ngọt ngào với mình, mà còn là vì bạn là người rất, rất thân thương với mình. Mình thật là quá được ưu đãi khi làm bạn của bạn và là người hướng dẩn cho bạn khi bạn đang chuẩn bị bước chân vào đời từ trường lớp. Mình muốn bạn được nhìn thấy mình lúc này, với đôi mắt vô cùng hạnh phúc của một người vợ, với những bổn phận đang ràng buộc mình, để cho bạn thấy rằng đến đám cưới của chính bạn, bạn cũng sẽ vô cùng hạnh phúc như mình. Bạn thân yêu ơi, xin Chúa Tòan Năng phù hộ, để cuộc đời bạn đầy những ước mơ, những tháng ngày ngập tràn ánh nắng, không có những cơn gió hung dữ, chẳng quên đi những bổn phận của mình, không còn những sự hòai nghi. Mình luôn ước ao sao cho bạn chẳng bao giờ phải đau khổ, và mình hy vọng bạn sẽ luôn hạnh phúc như mình lúc này. Tạm biệt, bạn thân yêu. Mình sẽ gửi lá thư này ngay, và có thể viết tiếp cho bạn liền đấy. Mình phải ngừng lại thôi, vì Jonathan đang tỉnh dậy kìa. Mình phải chăm sóc chồng mình chứ! "Bạn của bạn. "Mina Harker."

THƯ CỦA LUCY WESTERA GỬI MINA HARKER.

Whitby, ngày 30 tháng 8.

"Bạn Mina thân yêu,

"Hẳn là lúc này bạn và chồng bạn đang làm tràn ngập căn nhà của bạn trong đại dương tình ái với hàng triệu nụ hôn. Mình ước gì bạn có thể về đây kịp để chung vui với chúng mình. Không khí trong lành sẽ giúp anh Jonathan phục hồi. Nó đang giúp mình phục hồi đấy. Mình thèm ăn như một kẻ cuồng ăn, yêu đời và ngủ ngon lắm. Bạn chắc là sẽ rất vui khi biết rằng lúc này mình không còn mộng du nữa. Mình nghĩ là cả tuần nay mình chẳng rời khỏi giường kể từ lúc mình đặt mình xuống cho đến sáng. Arthur nói là mình đang mập ra đấy. Nhân tiện, mình quên nói với bạn rằng Arthur đang ở đây. Chúng mình cùng đi dạo, đi xe, cởi ngựa, và rồi bơi thuyền, đánh tennis, cùng nhau đánh cá, và mình yêu anh ấy hơn bao giờ hết. Anh ấy cũng nói là anh ấy cũng yêu mình hơn, nhưng mình nghi ngờ đấy, bởi vì ngày xưa anh ấy đã từng nói là chẳng bao giờ yêu mình hơn lúc này. Nhưng điều này xem ra vô lý quá. Anh ấy lại đang gọi mình kìa. Tình yêu của chúng mình chắc cũng chẳng thua gì bạn đâu, "Lucy.

"T.B – Mẹ của mình gửi lời hỏi thăm bạn. Bà ấy trông khỏe hơn, tội nghiệp bà.

"T.T.B – Chúng mình sẽ làm đám cưới vào ngày 28 tháng 9."

NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD

Ngày 20 tháng 8 - Trường hợp của Renfield càng lúc càng thú vị. Ông ta bây giờ đã trở nên bình lặng, chấm dứt một thời kỳ bùng nổ của ông. Sau cuộc nổi loạn đầu tiên của mình, ông ta trở nên hung hăng không ngớt. Rồi đến một đêm nọ, khi mặt trăng lên cao, ông ta trở nên bình lặng, và liên tục lẩm bẩm với chính mình. "Bây giờ thì tôi có thể đợi. Bây giờ thì tôi đợi được."

Những người phục vụ đi kêu tôi, và tôi chạy vội xuống gặp ông ta. Ông ấy vẩn mặc chiếc áo trói trong phòng cách ly, nhưng sắc mặt ông ấy đã có sự thay đổi, và trong mắt ông ta có điều gì đó giống như là sự cầu xin. Tôi gần như có thể nói một cách nhẹ nhàng là sự khúm núm. Tôi hài lòng với tình trạng hiện nay của ông ta, và cho phép ông ta được tự do. Những người phục vụ ngập ngừng, nhưng cuối cùng tuân theo lời tôi mà không phản kháng gì.

Thật là lạ khi bệnh nhân cũng nhận ra sự nghi ngờ của họ, nên ông ta tới gần tôi, thì thầm trong khi lén lút quan sát bọn họ, "Họ nghĩ là tôi có thể làm ông bị thương! Tưởng tượng ra là tôi có thể làm ông bị thương! Lũ ngốc!"

Ở một mức độ nào đó, tôi cảm thấy dễ chịu khi cảm thấy mình được người đàn ông điên tội nghiệp này đánh giá khác với mọi người, nhưng những điều tôi làm không hoàn toàn giống như những điều ông ấy nghĩ. Những điều tôi làm với ông ta thì cũng giống như những điều tôi sẽ làm với mọi bệnh nhân khác, và chúng tôi vẩn đang đứng cạnh nhau trước mặt ông ta. Hoặc là ông ta cảm thấy ở tôi có một sự khác lạ nào đó mà sự dễ chịu của tôi là cần thiết cho Ông Ta? Tôi sẽ tìm hiểu sau. Tối nay ông ta sẽ không nói. Thậm chí với việc đem một con mèo con và cả một con mèo trưởng thành ra làm mồi nhử cũng không quyến rũ được ông ấy.

Ông ta sẽ chỉ nói, "Tôi không dự trữ mèo. Tôi còn nhiều điều để suy nghĩ lúc này, và tôi có thể đợi. Tôi có thể đợi."

Sau đó tôi bỏ đi. Những người phục vụ nói lại với tôi rằng ông ta yên lặng cho đến ngay trước lúc rạng đông, và ông ta bắt đầu cảm thấy khó chịu, và trở nên hung hăng, cho đến khi một cơn giận dữ bộc phát làm ông ta kiệt sức và bất tỉnh nhân sự và hôn mê.

… Ba đêm liền mọi việc diễn ra theo cùng một cách thức như nhau, hung hăng suốt cả ngày và trầm tư từ lúc mặt trăng mọc đến lúc mặt trời mọc. Ước gì tôi có thể dò ra được một điều gì để giải thích cho việc này. Gần như là có một điều gì đó gây ảnh hưởng lên ông ta trong một thời gian rồi hết. A, tôi nghĩ ra một điều rất hay! Chúng ta sẽ sử dụng một mưu kế lành mạnh để đối phó với một người điên. Trước đây ông ta đã bỏ trốn mà chẳng có sự giúp đỡ của chúng tôi. Tối nay ông ta sẽ trốn thóat với nó. Chúng tôi sẽ cho ông ta một cơ hôi, và mọi người sẽ sẳn sàng khi cần thiết.

Ngày 23 tháng Tám. - 'Những điều được mong đợi sẽ xảy ra." Disraeli đã nhận xét thật chí lý về cuộc sống. Con chim của chúng tôi đã không hề bay khi nhận thấy cửa lồng đã mở, khiến cho kế hoạch tinh vi của chúng tôi trở thành con số không.Dù sao thì chúng tôi cũng đã chứng minh được một điều là chu kỳ của sự trầm uất kia là phụ thuộc vào thời gian. Có lẽ trong tương lai chúng tôi sẽ để cho ông ta được tự do vài giờ mỗi ngày. Tôi vừa ra lệnh cho những người phục vụ chỉ nhốt ông ta vào phòng cách ly vào ban đêm, đến khi bình minh. Thân xác của con người tội nghiệp kia sẽ được hưởng tự do ngay cả khi tâm hồn của ông ta không ý thức được điều đó. Hark! Lại một điều không chờ đợi khác. Người ta gọi tôi. Bệnh nhân đã lại bỏ trốn.

Đêm khuya. – Lại một chuyến mạo hiểm trong đêm khác. Refield đã khôn khéo đợi cho đến khi những người phục vụ đi vào phòng kiểm tra. Đoạn ông ta lẻn ra phía sau họ và lao xuống lối đi phía dưới. Tôi ra lệnh cho những người phục vụ đuổi theo. Một lần nữa ông ta đi vào vùng đất của ngôi nhà hoang, và chúng tôi tìm thấy ông ta ở đúng chỗ cũ, đang một lần nữa đẩy cửa tiến vào ngôi nhà thờ cổ. Khi ông ta thấy tôi thì ông ta trở nên rất giận dữ, và nếu những người phục vụ không giữ ông ta lại đúng lúc, thì hẳn là ông ta đã cố giết tôi. Khi chúng tôi tóm được ông ta thì một điều lạ lùng đã xảy ra. Ông ta cố gắng vùng vẫy gấp đôi, rồi thình lình trở nên bình tĩnh. Theo bản năng, tôi liếc nhìn chung quanh, nhưng chẳng thấy gì. Đoạn tôi quan sát mắt bệnh nhân và dõi theo tia nhìn của ông ta để nhìn vào bầu trời đầy ánh trăng, nhưng chẳng thấy gì, ngoại trừ một con dơi lớn, đang vỗ cánh trầm lặng và ma quái bay về phía tây. Dơi thì thường bay vòng, nhưng con này hình như cứ bay thẳng tiến, tuồng như nó có mục đích rõ ràng và biết rõ nơi mình đến.

Bệnh nhân trở nên bình tĩnh hơn bao giờ hết, và lặng lẽ nói, "Các người không cần trói tôi. Tôi sẽ trở về không kháng cự.!" Và chúng tôi trở về nhà mà không gặp rắc rối gì hết. Cái vẻ bình tĩnh của ông ta có một cái gì đó khiến cho tôi trở nên bất an, và tôi sẽ không quên đêm nay.

NHẬT KÝ CỦA LUCY WESTENRA

Hillingham, ngày 24 tháng Tám. – Tôi phải bắt chước Mina, ghi lại mọi chuyện mới được. Để rồi khi chúng tôi gặp nhau, chúng tôi sẽ có nhiều chuyện mà nói với nhau. Không biết khi nào thì điều đó xảy ra nhỉ. Tôi ước gì bạn ấy lại đến với tôi lần nữa, vì tôi đang hạnh phúc lắm. Tối hôm qua hình như tôi lại có một giấc mơ giống như lần ở Whitby. Có thể do sự thay đổi không khí, hoặc do việc tôi lại trở về nhà. Nó thật là tối tăm và dễ sợ, dù tôi chẳng nhớ được gì cả. Nhưng tôi sợ lắm, tôi cảm thấy mình vô cùng yếu ớt và kiệt sức. Khi Arthur đến ăn trưa, anh ấy trông có vẻ buồn bã khi nhìn thấy tôi, nhưng tôi không còn tâm trạng nào để vui vẻ nữa. Chắc là tối nay tôi sẽ ngủ trong phòng mẹ thôi. Tôi sẽ xin lỗi mẹ về việc này.

Ngày 25 tháng Tám. – Lại một đêm tồi tệ nữa. Mẹ không muốn tôi ngủ chung. Bà không khỏe, và rõ ràng là bà ấy sợ làm tôi lo. Tôi cố thức, và cũng thức được một lúc, nhưng không đồng hồ điểm mười hai tiếng thì tôi bắt đầu ngủ lơ mơ, và tôi bắt đầu ngủ thiếp đi. Hình như là có tiếng cào hay tiếng vỗ cánh gì đó ở bên cửa sổ, nhưng tôi không biết đó là cái gì, mà cũng chẳng nhớ gì hết. Đến sáng nay thì tôi yếu ớt khủng khiếp. Mặt tôi trắng bệch đi trông đến là kinh, và cổ họng tôi đau nhói. Rõ ràng là phổi tôi có vấn đề, bởi vì tôi cảm thấy mình không đủ không khí để thở. Tôi sẽ phải cố vui lên khi gặp anh Arthur mới được, bởi vì nếu thấy tôi trong tình trạng này anh ấy sẽ buồn lắm.
THƯ CỦA ARTHUR GỬI CHO BÁC SĨ SEWARD

"Khách sạn Albemarle, ngày 31 tháng Tám

"Jack thân,

"Tớ muốn cậu giúp tớ một việc. Luccy đang bệnh, dù nàng chẳng có bệnh gì rõ ràng, nhưng nàng trông rất tệ, và mỗi ngày mỗi yếu đi. Tớ hỏi xem nàng có biết nguyên nhân nào của tình trạng này hay không, vì tớ chẳng dám hỏi mẹ nàng, sợ sẽ khiến cho tâm hồn người đàn bà tội nghiệp ấy thêm lo âu về con gái trong khi bà ấy đang lâm vào một căn bệnh nan y. Bà Westenra có giãy bày với tớ là bà đã đi gần hết quãng đời của mình, tim bà đã rất yếu, dù Lucy tội nghiệp chẳng biết gì cả. Tớ chắc là có cái gì đó làm xáo trộn tâm hồn của nàng. Cứ nghĩ về nàng là tớ rối tung lên.Tớ cảm thấy đau nhói mỗi khi tớ trông thấy nàng. Tớ có nói với nàng là tớ sẽ kêu cậu đến gặp nàng, và dù lúc đầu nàng tỏ ra bẽn lẽn, ông bạn già, tớ chẳng hiểu vì sao đâu nhé, cuối cùng nàng cũng nhận lời. Tớ biết đây là một công chuyện có thể làm cậu thương tổn, nhưng tớ không ngần ngại chút nào khi khẩn khỏan yêu cầu cậu đến. Ngày mai cậu đến ăn trưa tại Hillingham, lúc hai giờ, và đừng có làm gì khiến bà Westenra nghi ngờ. Sau bữa ăn Lucy sẽ dàn xếp để gặp cậu một mình. Tớ lo lắm. và muốn gặp riêng cậu để xin ý kiến ngay khi tớ gặp cậu sau khi cậu gặp nàng. Đừng thất bại đấy!"

Arthur."

ĐIỆN TÍN, ARTHUR HOLMWOOD GỬI SEWARD

Ngày 1 tháng 9

"Tớ được gọi về vì cha tớ ốm. Tớ viết để báo cậu biết. Hãy viết cho tớ về mọi chuyện bằng chuyến thư tối nay đến Ring. Đánh điện gấp cho tớ nếu cần thiết."

THƯ CỦA BÁC SĨ SEWARD GỦIW CHO ARTHUR HOLMWOOD

Ngày 2 tháng Chín

"Bạn già,

"Với sự quan tâm sâu sắc đến sức khỏe của cô Westenra, tớ vội vã cho cậu biết ngay rằng, quan điểm của tớ trong vụ này là, chưa bao giờ tớ gặp một trường hợp bệnh lý hay xáo trộn tâm hồn như thế cả. Ngay khi gặp mặt nàng, tớ đã hoàn toàn không hài lòng vì sắc diện của nàng. Nàng có vẻ ốm yếu hơn nhiều kể từ lúc tớ gặp nàng lần cuối. Tất nhiên cậu phải chấp nhận một điều là tớ không có cơ hội để khám bệnh cho nàng một cách kỹ càng như ý mình. Tình bạn của chúng mình đã khiến cho lần chữa bệnh này trở thành một ca đặc biệt hơn bất kỳ công việc nghiên cứu y học hay cho bất kỳ khách hàng nào. Tớ sẽ kể với cậu thật chính xác những gì đã xảy ra, để chúng mình cùng bàn bạc và tìm ra cách xử lý thích hợp. Bây giờ tớ sẽ kể lại những gì tớ đã làm và tiếp theo là những đề xuất của tớ.

"Tớ thấy rằng cô Westenra trông khá vui vẻ. Mẹ nàng cũng có mặt, và sau vài giây tớ nhận ra là nàng đang cố gắng đánh lạc hướng mẹ mình, không cho bà biết là nàng đang bất an. Tớ không hề nghi ngờ rằng nàng đã đóan được, nếu không muốn nói là đã biết được, nguyên nhân vì sao phải cẩn trọng như vậy.

"Chúng tớ ăn trưa riêng với nhau, và khi chúng tớ cố hết sức mình để tỏ ra vui vẻ, thì chúng tớ cũng nhận được phần thưởng cho việc này, bởi vì sau đó tự bản thân chúng tớ cũng cảm thấy vui vẻ thật sự. Sau đó bà Westenra đi nằm, và chỉ còn lại Lucy với tớ. Bọn tớ đi vào phòng riêng của nàng, và khi những người phục vụ vẩn còn đi lại, thì Lucy vẩn còn cố tỏ ra vui vẻ.

"Tuy nhiên, ngay khi cánh cửa phòng đóng lại, thì chiếc mặt nạ cải trang đã rơi ngay khỏi mặt nàng, nàng ngồi xuống ghế với một hơi thở dài nặng nề, rồi dấu mặt sau cánh tay. Khi tớ thấy sự cố gắng để tự nâng tinh thần mình của nàng đã chấm dứt, tớ bèn lợi dụng nó để thực hiện một cuộc chẩn bệnh.

"Nàng nói với tớ một cách rất dịu dàng, 'Em không thể nói với anh rằng em khinh ghét việc tự nói về bản thân mình như thế nào.' Mình nhắc nàng nhớ rằng những lời giãi bày với bác sĩ luôn có một ý nghĩa thiêng liêng, và cậu đang hết sức lo lắng cho nàng như thế nào. Nàng hiểu ý mình ngay, và quả quyết nói. 'Hãy nói với Arthur những gì anh thấy cần thiết. Em không lo lắng cho mình, nhưng mà với anh ấy thì lại khác!' Và tớ cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm.

"Tớ có thể thấy dễ dàng là nàng đang trong tình trạng thiếu máu, nhưng tớ không thể tìm thấy những dấu hiệu thiếu máu y học thông thường, và tớ tìm thấy cơ hội để có thể kiểm tra về chất lượng máu của nàng, đó là khi nàng mở cánh cửa sổ vốn bị buộc chặt bằng một đoạn dây thừng, tay nàng bị cứa bởi một mảnh kính vỡ. Nó chẳng có gì nghiêm trọng, nhưng nó cho tớ một cơ hội tốt, và tớ cẩn thận giữ lại vài giọt máu để phân tích chúng.

"Kết quả phân tích cho thấy máu nàng ở trạng thái bình thường, và từ đó tớ có thể suy ra rằng chủ nó phải có tình trạng sức khỏe tốt. Về phương diện vật lý thì tớ có thể hài lòng rằng không có gì phải phàn nàn, nhưng vì phải có một nguyên nhân nào đó cho tình trạng bệnh lý của nàng, nên tớ đi đến kết luận rằng nó phải là một điều gì đó thuộc lãnh vực tinh thần.

"Nàng phàn nàng với tớ rằng đôi khi hơi thở của nàng trở nên nặng nhọc, và giấc ngủ của nàng nặng nề, không ngon giấc, với những cơn mộng luôn làm nàng hỏang sợ, dù rằng nàng chẳng thể nhớ gì về nó. Nàng nói khi là một đứa trẻ, nàng thường bị mộng du, và khi ở Whitby thì nàng trở lại thói quen đó, có một lần nàng mộng du đi lang thang trong đêm và đi đến tận Vách Đá Phía Đông, cô Murray đã tìm thấy nàng ở đấy. Nhưng nàng đảm bảo là sau này nàng không còn thói quen đó.

"Tớ cảm thấy nghi ngờ, và vì vậy tốt nhất tớ sẽ gửi thư cho người bạn cũ cũng là thầy tớ, Giáo sư Van Helsing, ở Amsterdam, người hiểu biết về những căn bệnh lạ hơn bất cứ ai trên thế giới này. Tớ yêu cầu ông ấy đến ngay, và vì cậu bảo tớ hãy làm mọi việc có thể nhân danh cậu, tớ cho ông ấy biết cậu là ai, mối quan hệ giữa cậu và cô Westenra. Anh bạn thân mến ạ, điều này có nghĩa là, vừa tuân theo triệt để những ý muốn của cậu, tớ cũng lấy làm tự hào và hạnh phúc khi làm mọi chuyện có thể được cho nàng.

"Tớ biết là Van Helsing sẽ làm tất cả mọi thứ cần thiết cho tớ vì những lý do cá nhân, nên bất kể ông ta muốn làm gì, chúng mình phải tuân theo tuốt. Ông ấy là một con người độc đóan, bởi vì ông ta biết rõ rằng những gì ông ta nói luôn hay hơn tất cả những người khác. Ông ta là nhà triết học cũng đồng thời là nhà siêu hình học, một trong những khoa học gia cấp tiến nhất trong thời đại mình, và tớ tin chắc là ông ấy có một tinh hồn cực kỳ rộng mở. Ông ấy có một tinh thần thép, một tính khí lạnh băng, sự cương quyết không gì có thể khuất phục, khả năng tự chủ, một con người càng trở nên cao quý bởi tính hay làm phúc, là trái tim tử tế và trung thực nhất còn đang đập, đó là tất cả những gì mà ông ấy trang bị cho những công việc cao thượng mà ông ấy làm vì lợi ích của lòai người, trên cả hai phương diện lý thuyết và thực hành, và quan điểm của ông ấy cũng rộng mở như tấm lòng quảng đại bao dung của ông. Tớ phải nói với cậu tất cả những việc này để giải thích cho cậu biết vì sao mà tớ đặt niềm tin của mình vào ông ấy. Tớ đã yêu cầu ông ấy đến ngay. Tớ sẽ gặp lại cô Westenra vào sáng mai. Nàng gặp tớ tại Stores, vì tớ không muốn mẹ nàng chú ý khi tớ lại một lần nữa đến gặp nàng.

"Cần cho nhau."

John Seward.

THƯ CỦA ABRAHAM VAN HELSING, MD, DPH, D.LIT,V.V…,V.V…, GỬI BÁC SĨ SEWARD

Ngày 2 tháng 9.

"Bạn hữu,

"Khi nhận được thư anh cũng là lúc tôi có thể đi đến chỗ anh được ngay. May mắn là lúc này tôi có thể đi ngay, chẳng gặp rắc rối gì với những tín đồ của tôi. Nói cách khác là chúng ta gặp may, bởi vì mọi chuyện sẽ rất tệ nếu như trong lúc tôi đang đi đến gặp bạn mình thì một tín đồ lại gọi tôi lại để biểu lộ tình thân ái. Nói với bạn của anh là nếu so sánh với trường hợp anh đã hút chất độc gây hoại tử từ vết thương của tôi, được gây ra từ con dao của một người bạn khác của chúng ta do quá căng thẳng đã trượt tay, thì lần này anh còn làm được nhiều hơn cho anh ta khi anh yêu cầu tôi giúp đỡ, đó là tất cả những gì tốt đẹp nhất mà anh ta có thể nhận được trong trường hợp này. Nhưng điều dễ chịu nhất cho anh ta cũng như cho anh chính là việc tôi sẽ đích thân đến. Để mọi việc thuận tiện, xin hãy sắp xếp để chúng ta có thể gặp người phụ nữ trẻ kia đừng quá trễ vào ngày mai, bởi vì tôi phải trở về ngay buổi tối. Nhưng nếu cần thì tôi có thể quay lại trong ba ngày tới, và có thể ở lại lâu hơn, nếu như cần phải thế. Hẹn gặp mặt, bạn John.

"Van Helsing."

THƯ CỦA BÁC SĨ SEWARD CHO HON. ARTHUR HOLMWOOD

Ngày 3 tháng 9

"Art thân,

"Val Helsing đã đến rồi đi ngay. Ông ấy đã cùng tớ đến Hillingham, và với sự sắp xếp khôn ngoan của Lucy, mẹ nàng đã ăn trưa ở ngòai, và chỉ có chúng tớ với nhau.

"Van Helsing đã có một cuộc khám nghiệm rất kỹ lưỡng bệnh nhân của mình. Ông ấy đã nói lại với tớ, và tớ chuyển lời đến cậu, vì tất nhiên là tớ không có mặt trong cuộc khám bệnh. Tớ sợ là ông ấy đã quá lo lắng, và nói rằng ông ấy còn phải suy nghĩ. Khi tớ nói với ông ấy về tình bạn của chúng ta, về vấn đề cậu đã tin tưởng tớ như thế nào trong công chuyện này, ông ta bảo, 'Anh có thể nói với bạn anh tất cả những gì anh nghĩ. Nói với anh ta là tôi còn phải suy nghĩ, và nếu anh thích thì anh có thể đóan xem nó là cái gì. Hừ, tôi không chế nhạo anh đâu. Đây không phải là sự chế nhạo, mà là vấn đề sống chết, có thể còn hơn nữa.' Ông ấy tỏ ra rất nghiêm trọng khi tớ hỏi xem như vậy là ông ấy muốn nói gì. Rồi chúng tớ quay về thị trấn, ông ta uống vài tách trà rồi quay về Amsterdam. Ông ấy chẳng cho tớ thêm một sự gợi ý nào cả. Cậu đừng có mà cáu với tớ đấy, Art, bởi vì cái sự trầm lặng của ông ấy chứng tỏ là ông ấy đang vận dụng tất cả trí não cho căn bệnh của nàng. Ông ấy sẽ nói hết khi nào đúng lúc. Tớ bèn nói với ông ấy là tớ chỉ đơn giản làm một bản kê khai về sự viếng thăm của chúng tớ, giống như tớ viết một bản kê khai mục báo đặc biệt cho tờ Điện tín Hàng ngày. Ông ấy không nói gì thêm , nhưng nhấn mạnh là tình hình an ninh ở London hiện nay không đến nỗi tệ như thời ông ta còn là sinh viên ở đấy. Nếu có thể được thì ngày mai tớ sẽ có bản báo cáo của ông ta. Trong trường hợp đó tớ sẽ viết cho cậu.

"À, còn về cuộc viếng thăm của chúng tớ thì như thế này, Lucy có vẻ vui vẻ hơn ngày đầu tiên tôi gặp nàng, và rõ ràng là trông khá hơn. Nàng đã bớt đi cái vẻ nhợt nhạt từng làm cậu điên đầu, và hơi thở của nàng đã trở lại bình thường. Nàng có vẻ rất dịu dàng với Giáo sư (nàng vẩn luôn như vậy mà), và cố làm ông ấy yên lòng, dù tớ thấy rõ là cô gái tội nghiệp ấy phải cố lắm để làm điều đó.

"Tớ tin là Van Helsing cũng nhận thấy điều ấy, bởi vì tớ thấy một cái liếc nhìn rất nhanh dưới đôi mày rậm của ông ấy, tớ thì tớ biết cái kiểu ấy lắm. Rồi ông ấy bắt đầu tán gẫu về mọi thứ ngoại trừ những chuyện về chúng tớ và những căn bệnh, với một sự vui vẻ tột độ và tớ có thể thấy là Lucy tội nghiệp cũng giả vờ hưởng ứng nồng nhiệt. Thế rồi, chẳng hề đổi giọng, ông ấy lịch thiệp chuyển hướng cuộc đối thoại thẳng vào mục đích cuộc thăm viếng của ông ấy, và nói thẳng,
"Cô gái trẻ thân mến của tôi, phải nói là tôi rất dễ chịu khi thấy cô thật là đáng yêu đến thế. Cô bạn thân ạ, có lẽ là còn nhiều điều mà tôi còn chưa nhìn thấy. Họ nói với tôi là cô đang mất tinh thần, và cô xanh xao ghê lắm. Tôi nói với họ "Phì!" và ông ấy bật ngón tay với tôi rồi tiếp. 'Nhưng tôi và cô sẽ chỉ cho bọn họ thấy bọn họ đã sai lầm như thế nào. Hắn thì có thể làm được gì', ông ấy chỉ về phía tớ với giáng vẻ như ông ấy đã từng chỉ về phía tớ trong những lớp học của ông ấy, tớ không bao giờ quên được cái dáng điệu đặc biệt này, 'hắn thì biết gì về những cô gái trẻ? Hắn suốt ngày chơi đùa với những người điên, mang hạnh phúc đến cho họ, và điều đó khiến hắn yêu mến họ. Đó là công việc nặng nhọc, nhưng phần thưởng chúng tôi nhận được trong những công việc đại loại như vậy chính là việc chúng tôi có thể tìm thấy hạnh phúc cho mình. Nhưng còn với các cô gái trẻ! Hắn chẳng có vợ hay con gái, và những con người trẻ tuổi sẽ không nói về chính mình với những con người trẻ tuổi, nhưng với những người già, chẳng hạn như tôi, những người đã trải qua nhiều đau khổ do tuổi trẻ mang lại, thì khác. Vì vậy, cô bạn thân mến, chúng ta sẽ nói hắn đi ra ngòai hút xì gà trong vườn, trong khi đó tôi và cô sẽ nói chuyện về chính mình.' Tớ hiểu ý ngay, bèn bắt đầu đi dạo lòng vòng, một lúc sau giáo sư đến bên cửa sổ và gọi tớ đến. Ông ấy trong rất nghiêm trọng, và nói, 'Tôi đã khám kỹ lưỡng, nhưng chưa tìm thấy nguyên nhân nào. Tôi đồng ý với anh ra èng cô ấy đã bị mất máu, trước đây thì vậy nhưng lúc này thì không. Nhưng lúc này trên cơ thể cô ấy không có tình trạng bệnh lý nào. Tôi đã yêu cầu cô ấy cho tôi mượn người hầu gái, vì tôi cần hỏi thêm một hai câu nữa, để tôi không bỏ qua bất cứ cái gì. Tôi hiểu những gì cô ấy nói. Và chưa biết được nguyên nhân. Phải có nguyên nhân cho tất cả mọi sự. Tôi phải về nhà và suy nghĩ. Anh đánh điện cho tôi mỗi ngày, và nếu có gì đặc biệt thì tôi sẽ lại đây. Căn bệnh mà chưa hiểu là bệnh gì này hấp dẩn tôi, và cô gái trẻ dịu dàng đáng yêu này cũng hấp dẩn tôi luôn. Cô ấy mê hoặc tôi, và tôi sẽ quay lại, không phải vì anh hay vì căn bệnh đâu, mà vì chính cô ấy.'

"Như tớ kể với cậu rồi đấy, ông ấy không nói thêm nữa lời, ngay cả khi chỉ còn hai chúng tớ. Và đến bây giờ thì cậu biết hết những gì tớ biết rồi, Art ạ. Tớ sẽ luôn chú ý theo dõi. Tớ tin là cha cậu đang phục hồi. Thật là kinh khủng cho cậu khi hai người thân yêu của cậu lại rơi vào tình cảnh như vậy, cậu bạn thân của tôi. Tớ biết quan điểm của cậu về bổn phận đối với cha mình, và cậu đúng khi ở bên ông ấy. Nếu cần, tớ sẽ nói cậu đến ngay với Lucy, và đừng quá lo lắng trừ khi cậu nhận tin từ tớ."

NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD

Ngày 4 tháng Chín. – Kẻ bệnh nhân cuồng ăn thịt vẩn tiếp tục khiến chúng tôi phải chú ý đến ông ta. Ông ta chỉ bộc phát một lần vào một giờ giấc bất thường tối hôm qua. Ngay trước khi đồng hồ điểm giữa trưa, ông ta bắt đầu trở nên bồn chồn. Những người phục vụ biết triệu chứng này, bèn gọi mọi người sẳn sàng. May mắn là mọi người tập hợp lại đúng lúc, bởi vì ngay khi đúng giữa trưa ông ta trở nên điên dại khiến mọi người phải cố hết sức mới kiềm giữ ông ta lại được. Tuy nhiên, khỏang năm phút sau thì ông ta bình tĩnh hơn, và cuối cùng thì chìm vào trạng thái u sầu, và ông ta cứ giữ nguyên trạng thái đó cho đến giờ. Những người phục vụ nói tôi rằng tiếng gào thét trong cơn động kinh của ông ta rất man dại. Tôi bị vây kín bởi những bệnh nhân khác khiếp hãi bởi tiếng thét này khi tôi bước vào phòng. Điều này chẳng làm tôi ngạc nhiên, bởi vì chính tôi còn phải kinh động bởi tiếng gào này, dù tôi đứng ở một quãng xa. Bây giờ là đến giờ ăn trưa của viện điều dưỡng, nhưng người bệnh nhân của tôi vẩn ngồi ở góc phòng, mặt ông ta trông vô thức, ủ rũ và thiểu não, có vẻ như muốn nói lên một điều gì đấy. Tôi không thể hiểu nó là cái gì.

Sau đó. – Lại một thay đổi khác nơi bệnh nhân của tôi. Đúng năm giờ tôi đến khóa cửa phòng ông ta, thì thấy ông ta tỏ ra hạnh phúc và hăng hái như thường lệ. Ông ta đang bắt ruồi và ăn chúng, rồi đánh dấu lại số lượng ruồi mà ông ta đã bắt bằng cách đánh dấu lên cạnh cánh cửa ngăn cách phòng cách ly. Khi thấy tôi, ông ta chạy đến và xin lỗi vì hạnh kiểm xấu của ông, rồi nói với tôi bằng một vẻ nhún nhường, khúm núm xin cho ông ấy trở về phòng để lấy lại cuốn sổ ghi chép. Tôi nghĩ rằng điều này có lẽ tốt cho ông ta, nên ông ta được trở về phòng mình, cửa sổ mở rộng. Ông ta lấy đường trong tách trà của mình trải ra cửa sổ, và lại bắt đầu vụ mùa thu hoạch ruồi. Bây giờ thì ông ta không ăn chúng, và bỏ vào hộp, và bắt đầu tìm kiếm nhện ở góc phòng như cũ. Tôi cố gợi ông ta nói về vài ngày qua, vì bất kỳ điều gợi ý nào trong ý nghĩa của ông ấy cũng là một sự giúp đỡ to lớn đối với tôi, nhưng ông ta không hưởng ứng. Một lát sau ông ta trở nên buồn bã, và nói bằng một giọng xa vắng, giống như nói với ông ta hơn là nói với tôi.

"Hết cả! Hết cả rồi! Ông ấy đã bỏ rơi tôi. Không còn hy vọng gì nữa, trừ khi tôi tự làm lấy." Và rồi thình lình ông ấy quay sang tôi, nói bằng một giọng cương quyết, "Bác sĩ, liệu ngài có đủ lòng tốt để cho tôi xin thêm một ít đường được không ạ? Tôi nghĩ nó sẽ rất tốt cho tôi."

"Và ruồi nữa chứ?" Tôi hỏi.

"Vâng! Ruồi cũng rất thích nó, và tôi thích nó, chính vì vậy mà tôi thích nó." Và mọi người đều biết rằng không nên tranh cãi với người điên. Tôi cung cấp gấp đôi những gì ông ta yêu cầu, khiến cho ông ta trở nên hạnh phúc đến nỗi tôi nghĩ rằng không ai trên thế giới này có thể sung sướng hơn. Ước gì tôi hiểu được tâm hồn ông ta.

Nữa đêm. – Lại một thay đổi khác nơi ông ta. Tôi đi thăm cô Westenra, nàng đã trông khá hơn nhiều, và chỉ vừa mới qua về, đang đứng ngay cổng nhà mình để ngắm cảnh hòang hôn, thì tôi nghe tiếng ông ta kêu thét lên. Tiếng kêu của ông ta ở góc này của ngôi nhà nghe còn rõ hơn lúc sáng. Tôi chợt bàng hòang khi thấy cảnh đẹp mờ ảo như khói sương của buổi hoàng hôn London bỗng nhiên chìm vào một luồng sáng xanh mét của một đám mây tối tăm phủ một màn đen như mực lên những sắc màu xinh tươi của cuộc sống giống như một cơn mưa nước màu đen đang dội xuống. Ngôi biệt thự bằng đá lạnh giá của tôi như chìm hẳn vào một màu u ám, hơi thở của nó trở nên đầy đau khổ, và trái tim tan nát của tôi đang sẳn sàng đón nhận tất cả. Tôi đi đến chỗ ông ta đúng vào lúc mặt trời lặn xuống, và nhìn cái dĩa đỏ ấy chìm hẳn xuống từ cửa sổ ông ta. Khi nó lặn thì ông ta càng lúc càng mất đi vẻ điên cuồng của mình, và cuối cùng ông ta trượt khỏi tay những người đang giữ mình, ngã quay đơ trên nền nhà. Những người mất trí lại có một nguồn năng lực tinh thần tuyệt vời, nên vài phút sau ông ta đứng dậy với một vẻ bình thản, và liếc nhìn chung quanh. Tôi ra hiệu cho những người phục vụ đừng giữ ông ta nữa, vì tôi nóng ruột muốn biết ông ta sẽ làm gì tiếp theo. Ông ta đi thẳng về phía cửa sổ và ném những mảnh đường vụn ra ngòai. Rồi ông ta lấy cái hộp ruồi, và thả sạch chúng ra, rồi ném cái hộp đi. Đoạn ông ta đóng cửa sổ, cài then, ngồi xuống bên giường. Tôi hết sức ngạc nhiên, hỏi ông ta, "Ông còn bắt ruồi nữa không?"

"Không," ông ta nói. "Tôi chán ngấy cái thứ rác rưởi ấy rồi!" Ông ta rõ ràng là đã có một bài học thú vị. Ước gì tôi có thể hiểu sơ được tâm hồn của ông ta hoặc nguyên nhân đã khiến ông ta có hành động đột ngột này. Dừng lại. Cuối cùng thì hẳn phải có một chỉ dẩn nào đó, hôm nay rõ ràng chúng ta thấy những cơn động kinh của ông ta đến lúc giữa trưa đứng bóng và lúc hòang hôn. Có thể do một sự ảnh hưởng thâm hiểm nào đó từ chu kỳ của mặt trời khiến gợi nên những bản năng tự nhiên, và đôi khi mặt trăng gây ra những ảnh hưởng khác chăng? Chúng ta hãy xem.

ĐIỆN TÍN, SEWARD, LONDON, GỬI VAN HELSING, AMSTERDAM

"Ngày 4 tháng Chín. – Bệnh nhân hôm nay vẩn tiếp tục bình phục."

ĐIỆN TÍN, SEWARD, LONDON, GỬI VAN HELSING, AMSTERDAM

"Ngày 5 tháng Chín. – Bệnh nhân phục hồi rất tốt. Thèm ăn, ngủ ngon, lên tinh thần, và có vẻ hồng hào trở lại."

ĐIỆN TÍN, SEWARD, LONDON, GỬI VAN HELSING, AMSTERDAM

"Ngày 6 tháng Chín. – Mọi sự đã thay đổi một cách tồi tệ. Đến ngay. Đừng để mất một giờ nào. Tôi cũng gửi điện cho Holmwood đến để gặp ngài."
Về Đầu Trang Go down
Ku.Péo
Thành viên V.I.P
Thành viên V.I.P
Ku.Péo


Points : 745
Bạn được Thanks: : 1
Join date : 25/09/2009
Age : 30
Đến từ : Trung Quốc
Humor : Funny Face ^^

Ác quỉ Dracula - Chương 7-8-9-10-11 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác quỉ Dracula - Chương 7-8-9-10-11   Ác quỉ Dracula - Chương 7-8-9-10-11 Icon_minitime11/10/2009, 5:38 pm

Ác quỉ Dracula - Chương 10

THƯ CỦA BÁC SĨ SEWARD GỬI HON ARTHUR HOLMWOOD

Ngày 6 tháng 9

"Art thân,

"Hôm nay tin tức của tớ không được tốt lắm. Sáng nay Lucy lại ốm trở lại. Tuy nhiên, điều đó cũng mang lại một điều tốt. Bà Westenra tất nhiên là quan tâm đến bệnh tật của Lucy, đã yêu cầu tớ chăm sóc cho nàng trên tư cách nghề nghiệp. Tớ lợi dụng ngay cơ hội này, và nói với bà rằng thầy tớ, Van Helsing, là một chuyên gia tài ba, sẽ đến ở với tớ, và tớ sẽ nhờ ông ấy cùng giúp đỡ tớ trong việc này. Vì vậy chúng tớ có thể tự do đến và đi mà không làm cho bà ấy để ý đến những sự bất thường này, bởi vì một cú sốc là cũng có thể khiến bà ấy chết thình lình, và tình trạng ốm yếu trầm trọng của Lucy có thể khiến mang một hậu quả bi thảm cho bà. Chúng tớ phải làm việc trong điều kiện khó khăn thế đấy, cậu bạn tội nghiệp của tôi, nhưng cầu xin Chúa phù hộ cho chúng tớ giải quyết tốt đẹp được mọi chuyện. Nếu cần thiết tớ sẽ viết, vì vậy nếu cậu chẳng nhận tin của tớ, thì hãy cứ biết là tớ cũng đơn giản đang mong đợi tin tức, trong nôn nóng,

"Mãi là bạn cậu,"

John Seward

NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD

Ngày 7 tháng Chín. – Điều đầu tiên Van Helssing nói với tôi khi chúng tôi gặp nhau tại đường Liverpool là, "Anh đã nói gì với người bạn trẻ của chúng ta, với người yêu của cô ta chưa?"

"Không," tôi nói. "Tôi muốn đợi gặp ông, giống như tôi đã nói trong điện tín. Tôi chỉ đơn giản viết cho cậu ta biết là ông đang đến, cũng như cô Westenra thì không được khỏe, và tôi cho cậu ấy biết điều đó vì cần thiết."

"Phải rồi, anh bạn," ông ta nói. "Rất đúng! Tốt hơn là anh ta chưa nên biết gì vội. Có thể anh ta sẽ không bao giờ biết. Tôi cầu nguyện cho điều đó, nhưng nếu cần thiết thì anh ấy sẽ biết tất cả. A, anh bạn tốt bụng John, tôi cũng cảnh báo trước cho anh nhé. Anh làm việc với những người điên. Tất cả mọi người đều điên theo một cách này hay cách khác, và bởi vì anh có một công việc gần gũi với những người điên của anh, thì anh cũng sẽ làm việc với những người điên của Chúa, đó là phần còn lại của thế giới này. Anh không nói với những người điên vì sao anh làm hay không làm việc này, việc kia. Anh không nói với họ là anh đang nghĩ gì. Anh sẽ giữ những hiểu biết của mình ở đúng chỗ của nó, nơi nó có thể được nghĩ ngơi, nó có thể được thu thập lại và được nuôi dưỡng. Anh và tôi sẽ giữ những điều mà chúng ta biết được ở đây, và ở đây nữa." Ông ấy chạm vào tim và trán tôi, rồi làm giống như vậy với ông ta. "Bây giờ thì tôi cần phải suy nghĩ một lúc. Tôi sẽ nói hết với anh sau."

"Vì sao không phải lúc này?" tôi hỏi. "Có thể như thế thì tốt hơn. Chúng ta sẽ đi đến một số quyết định nào đó." Ông ta liếc nhìn tôi và nói, "Bạn John của tôi, khi mà những bắp ngô mọc lên, ngay trước khi nó chín, trong khi dòng nhựa sống của đất mẹ vẩn còn chảy trong nó, và ánh nắng mặt trời còn chưa phủ lên nó một màu vàng óng, thì những người nông dân đã cày xới và chà xát cùng nó giữa những đôi tay chai sạn của mình, sẽ bỏ ngòai tai những lời châm chọc của những kẻ thiếu kinh nghiệm, và nói với anh rằng, 'Xem kìa! Đây là những bắp ngô tốt, và chúng ta sẽ có một vụ mùa bội thu khi thu hoạch."

Tôi chưa thể liên tưởng được những điều ông ta muốn nói và nói lại với ông ta. Để trả lời ông ta bước tới và véo lấy tai tôi, giống như khi xưa ông ta vẩn làm trong các bài giảng, đoạn nói, "Người nông dân giỏi sẽ nói cho anh biết những gì ông ta biết, nhưng chưa phải lúc này. Tất nhiên là chẳng có người nông dân giỏi nào đào xới cây bắp của mình lên để xem nó đang lớn lên như thế nào. Đó là cách bọn trẻ tập chơi nông trại, chứ không phải là cách của những con người làm những công việc vì cuộc sống của mình. Hiểu chưa, anh bạn John? Tôi đang gieo hạt, và Thiên Nhiên sẽ làm phần việc của mình khi khiến cho hạt đó nảy mầm, tất nhiên là nếu cái hạt đó có thể nảy mầm, và tôi đợi đến lúc tai mình có thể nghe thấy tiếng cái mầm ấy vạch đất chui lên." Ông ta dừng lại, bởi vì rõ ràng ông ta thấy tôi đã hiểu. Và ông ta nói tiếp, một cách mạnh mẽ, "Anh luôn là một sinh viên chịu khó, và những cuốn sổ ghi chép chuyên môn của anh luôn được ghi đầy trong những kỳ nghĩ. Hãy nhớ đấy, bạn thân, rằng kiến thức thì luôn mạnh hơn trí nhớ, và chúng ta sẽ không tin tưởng vào cái thứ yếu hơn này. Thậm chí nếu anh không thường xuyên thực hành, thì tôi nói với anh rằng rất có thể những gì anh biết được có thể sẽ mai một đi mất, tôi nói có thể, bởi vì không phải lúc nào sự nghỉ ngơi cũng khiến cho con người ta mai một, chúng ta và những người khác đều biết điều này, và bọn các anh cũng hay vin vào cái cớ đó lắm. Hãy ghi chép lại mọi thứ. Không có gì quá nhỏ đâu. Tôi thậm chí còn khuyên anh ghi chép hay thu âm lại những nghi ngờ và ước đóan của mình. Sau này có thể anh sẽ thích thú khi biết được rằng anh đã đóan đúng hay không. Chúng ta học tập từ những thất bại, không phải từ thành công!"

Khi tôi mô tả lại những triệu chứng của Lucy, giống như trước, nhưng những biểu hiện bệnh trạng càng rõ rệt hơn và hầu như không giới hạn, ông ta có vẻ rất quan tâm, nhưng không nói gì. Ông ta lấy ra cái túi chứa những dụng cụ và dược phẩm của mình, "những đồ dùng kinh khiếp cho những công việc có ích của chúng ta," có lần ông ta gọi chúng như thế trong một trong những bài giảng của ông, khi nói về những dụng cụ của giáo sư chuyên dùng cho những công việc phục vụ sức khỏe con người.

Khi chúng tôi đến, và Westenra tiếp chúng tôi. Bà ấy trông lo lắng, nhưng không nhiều như tôi lo sợ. Bản chất của bà ấy quá thuần hậu đến nỗi đối với bà thậm chí cái chết cũng chỉ là một điều an ủi cho những niềm đau khổ của chúng ta trên trần thế. Ở đây, trong khi mà bất kỳ một cú sốc nào cũng có thể gây ra một kết cục bi thảm, thì mọi sự đã được sắp xếp khiến cho chúng không còn tránh né những công việc riêng tư nữa, thì hình như bà vẩn chưa biết rõ sự thay đổi khủng khiếp nơi người con gái thân yêu của bà. Điều này giống như là việc bà mẹ Thiên Nhiên đã quàng cho những người ngoại quốc những vòng chuỗi vô tri để bảo vệ lại quỷ dữ khiến cho họ tránh được những tai họa. Nếu việc chúng tôi làm mang tính tư lợi, thì chúng tôi nên dừng lại, bởi vì chúng tôi kết án những công việc mang tính chất ích kỷ, chúng là nguyên nhân sâu xa cho những kết cục mà chúng ta đã biết.
Với những kiến thức của mình về tình trạng bệnh lý tinh thần như thế này, tôi quyết định dứt khóat là bà không nên ở bên Lucy, vì chính tình trạng đau ốm của bà có giá trị hơn bất kỳ lời yêu cầu tuyệt đối nào. Bà ấy đồng ý một cách vui lòng, vui lòng đến mức tôi có thể thấy lại một lần nữa cuộc đấu tranh sinh tồn diễn ra trong Thiên Nhiên. Van Helsing và tôi đi lên phòng Lucy. Hôm qua tôi bị sốc khi tôi thấy nàng, hôm nay tôi cảm thấy kinh khủng khi nhìn thấy nàng.

Nàng trông thật khủng khiếp, trắng bệch như phấn sáp. Sắc đỏ đã biến mất khỏi môi và lợi nàng, xương mặt nàng nhô hẳn lên. Hơi thở khó nhọc của nàng có thể nhìn thấy hay nghe thấy dễ dàng. Mặt Van Helsing vẩn lạnh lùng như đá hoa cương, và lông mày của ông ấy nhíu lại đến nỗi gần chạm vào mũi ông. Lucy nằm bất động, hầu như không còn đủ sức để nói nữa, còn chúng tôi im lặng trong một thóang. Rồi Van Helsing ra hiệu cho tôi, và chúng tôi nhẹ nhàng ra khỏi phòng. Ngay khi chúng tôi vừa đóng cửa thì ông nhanh nhẹn đi theo hành lang vào một cửa khác đang mở. Ông đẩy ập tôi vào cùng với ông và sập cửa lại. "Chúa ơi!" ông nói. "Thật là khủng khiếp. Không được để phí thời gian. Cô ta sẽ chết chỉ đơn giản là vì không còn đủ máu cho trái tim hoạt động như bình thường được. Cần phải truyền máu cho cô ta ngay. Anh hay tôi?"

"Tôi trẻ hơn và khỏe hơn, Giáo sư. Phải là tôi."

"Sẳn sàng đi. Tôi sẽ đi lấy cái túi của tôi. Tôi sẽ chuẩn bị."

Tôi đi xuống cùng với ông ta, và khi chúng tôi đang đi thì có tiếng gõ cửa ở cửa chính. Khi chúng tôi đến tiền sảnh, người hầu gái cũng vừa mở cửa và Arthur lao vọt vào. Cậu ấy phóng thẳng đến chỗ tôi, nói bằng những tiếng thì thầm nóng nảy,

"Jack, tớ lo quá. Tớ cảm thấy trong bức thư của cậu chứa đựng điều gì đó bất thường. Cha tớ đã khỏe hơn, và tớ chạy vội đến đây để được thấy mọi chuyện tận mắt. Đây có phải là ngài bác sĩ Van Helsing không ạ? Tôi rất cám ơn ngài đã đến đây, thưa ngài."

Ngay khi mắt Giáo sư lướt qua cậu ấy, ông có vẻ giận dữ vì bị cắt ngang công việc, nhưng khi ông thấy thân hình vạm vỡ cân đối của cậu ấy, nhận ra vẻ nam tính của sức mạnh tuổi trẻ tóat ra từ cậu ấy, mắt ông sáng lên. Ông nói ngay khi tay ông bắt lấy tay cậu ta,

"Thưa anh, anh đến đúng lúc lắm. Anh là người yêu của cô gái thân mến của chúng ta. Cô ấy bệnh nặng, rất, rất nặng. Nào, con trai, đừng như thế chứ." Ông ấy nói như vậy bởi thình lình cậu ta trắng bệch và gần như ngã ngất ra trên ghế. "Anh đến đây để giúp cô ta. Anh có thể làm nhiều hơn so với việc nằm ườn ra như thế, và sự can đảm của anh là sự giúp đỡ lớn nhất của anh."

"Tôi có thể làm gì?" Arthur khàn giọng."Cứ nói, và tôi sẽ làm. Cuộc sống của tôi là của nàng, và tôi sẽ dốc cạn giọt máu cuối cùng của mình cho nàng."

Giáo sư rất hóm hỉnh, và với kinh nghiệm của mình tôi có thể nhận ra được tính cách ấy trong câu trả lời của ông.

"Anh bạn trẻ, tôi không đòi hỏi đến mức đó đâu, không cần phải đến giọt máu cuối cùng đâu!"

"Tôi sẽ làm gì?" Mắt cậu ấy rực lửa, mũi cậu ấy mở rộng rung lên trong sự tập trung. Van Helsing vỗ vai cậu ta.

"Đi nào!" ông ấy nói."Anh đúng là con người, con người chúng tôi cần. Anh tốt hơn tôi, tốt hơn anh bạn John thân mến này." Arthur có vẻ ngơ ngác, và giáo sư tiếp tục giải thích một cách dịu dàng.

"Cô gái trẻ đang ốm, ốm nặng lắm. Cô ấy cần có máu, và cô ấy phải có máu hoặc là sẽ chết. Bạn John của tôi và tôi đã thảo luận, và chúng tôi quyết định thực hiện công việc mà chúng tôi gọi là truyền máu, để chuyển máu từ một mạch máu căng tràn vào mạch máu đã cạn của cô ấy. John đã quyết định cho máu, và anh ta trẻ và khỏe hơn tôi." – Nghe đến đây Arthur nắm lấy tay tôi và thầm lặng xiết chặt. – "Nhưng bây giờ thì anh đã đến, anh tốt hơn bọn tôi, cả người trẻ lẫn người già, những người đã phải vất vả trong thế giới của những công việc nghiên cứu. Thần kinh chúng tôi không bình lặng và máu chúng tôi không tươi sáng như anh!"

Arthur quay sang ông ta nói, "Nếu ngài biết được tôi vui mừng như thế nào khi được chết vì nàng thì ngài sẽ hiểu…" Cậu ấy ngừng lại vì nghẹn lời.

"Cậu bé được lắm!" Van Helsing nói, "Anh sẽ không có hạnh phúc nào hơn là việc anh làm tất cả cho người mình yêu. Đi đến đây và im lặng. Anh sẽ hôn cô ấy trước khi mọi việc bắt đầu, nhưng anh phải đi, phải theo sự hướng dẩn của tôi. Đừng nói gì với mẹ cô ấy. Anh hiểu điều đó có ý nghĩa như thế nào với bà ta. Không được gây ra cú sốc nào, điều đó phải được hiểu rõ. Đi!"

Chúng tôi đi vào phòng Lucy. Arthur được hướng dẩn phải đứng ở ngòai. Lucy quay đầu lại và nhìn thấy chúng tôi, nhưng không nói gì. Nàng không ngủ, nhưng nàng chỉ đơn giản là không còn đủ sức để làm một việc gì khác. Mắt nàng nói chuyện với chúng tôi, và đó là tất cả.
Van Helsing lấy ra khỏi túi của ông ta một số món gì đó và bày nó ra trên một chiếc bàn nhỏ nằm khuất đằng xa. Rồi ông ấy pha một thứ thuốc mê, mang đến bên giường, vui vẻ nói, "Nào, cô gái nhỏ, đây là thuốc của con. Uống đi, như một đứa trẻ ngoan nào. Xem nào, ta sẽ nâng con lên để con nuốt dễ hơn. Thế." Nàng đã làm được công việc này.

Tôi ngạc nhiên khi thấy thuốc ngủ lại lâu có tác dụng đến thế. Điều này lại càng làm rõ thêm tình trạng yếu ớt của nàng. Thời gian gần như vô tận cho đến khi giấc ngủ bắt đầu chạm nhẹ vào mi mắt của nàng. Tuy nhiên, cuối cùng thuốc mê cũng bắt đầu bộc lộ công hiệu, và nàng chìm sâu vào giấc ngủ say. Khi đó thì giáo sư hài lòng, gọi Arthur vào phòng, và kêu anh ấy cởi áo khoác. Đoạn ông nói, "Anh có thể trao cho cô ấy một nụ hôn nhẹ nhàng, trong khi tôi chuẩn bị mọi thứ trên bàn. Anh bạn John, lại giúp tôi nào!" Chẳng có ai trong chúng tôi nhìn lại khi cậu ấy cúi người về phía nàng.

Van Helsing quay sang phía tôi, nói, "Anh ta còn trẻ và khỏe, máu của anh ta tinh khiết đến nỗi không cần phải lọc tơ huyết làm gì."

Rồi ông ta tiến hành cuộc phẫu thuật bằng những thủ pháp nhanh nhẹn, chính xác. Trong khi cuộc truyền máu diễn ra, có cái gì đó giống như sự sống đang đi ngược vào đôi má của Lucy đáng thương, và dù Arthur càng lúc càng trở nên xanh xao, niềm vui vẩn sáng rực trên mặt cậu ấy. Sau một lúc tôi trở nên lo ngại, vì dấu vết của sự mất máu đã hiện rõ nơi Arthur, dù cậu ấy mà một thanh niên cường tráng. Điều này khiến tôi càng hiểu rõ tình trạng yếu ớt của Lucy khiến cho Arthur phải mất bao nhiêu sức lực chỉ đến giúp nàng hồi phục một phần.

Nhưng mặt của giáo sư đanh lại, ông ta đứng lên và quan sát, lúc này đôi mắt ông đảo liên tục từ bệnh nhân sang Arthur. Tôi có thể nghe thấy nhịp tim của chính mình. Ngay sau đó, ông ta nhẹ nhàng nói, "Đừng cố gắng thêm nữa. Đủ rồi. Anh chăm sóc anh ta, còn tôi thì lo cho cô gái."

Khi tất cả đã xong, tôi có thấy Arthur yếu lả đi như thế nào. Tôi băng bó vết thương, mang cậu ấy đi trên tay mình, trong khi Van Helsing nói mà chẳng buồn quay lại, con người này tuồng như có mắt sau gáy, "Một người tình dũng cảm, tôi nghĩ là anh ấy xứng đáng với một nụ hôn khác mà cuối cùng anh ta sẽ được hưởng." Và khi ông ta kết thúc cuộc phẫu thuật, ông ta điều chỉnh lại chiếc gối trên đầu bệnh nhân. Và ông ta cũng làm như vậy bởi một dãi băng nhung đen hẹp mà nàng luôn đeo quanh cổ họng, được khóa bởi một cái khóa kim cương cũ mà người yêu của nàng đã tặng nàng, kéo nó lệch lên một chút, và nhìn thấy một dấu đỏ trên cổ họng nàng.

Arthur không tỏ ra điều gì, nhưng tôi có thể nghe thấy một tiếng húyt sáo khẽ sâu trong hơi thở của Van Helsing biểu lộ sự xúc động của ông ấy. Ông không nói gì, nhưng quay sang tôi, bảo, "Nào, hãy mang người tình trẻ tuổi dũng cảm của chúng ta xuống, và cho anh ta nằm nghĩ một chút. Anh ta phải về nhà và nghĩ ngơi, ngủ và ăn cho nhiều vào, để anh ta có thể trở lại tiếp tục cống hiến cho tình yêu của mình. Anh ta không được nằm ở đây. Hãy bình tĩnh! Tôi phải làm thế, vì anh đang yếu lắm, anh bạn. Lần này anh đã cứu tính mạng cô ta, và anh có thể về nhà, nghỉ ngơi và chờ đợi mọi việc tiếp tục. Tôi sẽ nói lại với cô ấy tất cả khi cô ấy hồi tĩnh. Cô ấy sẽ yêu anh không kém một chút nào so với những gì anh đã làm đâu. Tạm biệt."

Khi Arthur đi, tôi trở về phòng. Lucy đã ngủ ngon, nhưng hơi thở của nàng đã mạnh hơn. Tôi có thể thấy chiếc khăn trải giường rung động theo nhịp thở nặng nhọc của nàng. Van Helsing ngồi bên, nhìn nàng chăm chú. Tấm băng nhung đen đã được kéo lại che phủ vết trầy đỏ. Tôi thì thầm với giáo sư, "Ông đã gây ra vết trầy đó trên cổ nàng à?"

"Anh đã gây ra nó à?"

"Tôi chưa khám qua chỗ này," tôi trả lời, và tiến đến tháo dãi băng ra. Ngay trên tĩnh mạnh cổ của nàng là hai dấu thủng , không lớn, nhưng trông rất sâu. Không có triệu chứng của căn bệnh nào, nhưng cạnh của nó trắng và trông rất mệt mõi, giống như bị cái gì nghiền ra vậy.Ngay tức khắc tôi cho rằng, dù vết thương này là cái gì đi nữa, thì nó có thể giải thích cho việc thiếu máu trầm trọng của nàng. Nhưng tôi xua tan ý nghĩ này ngay khi nó vừa thành hình, bởi vì không thể như thế được. Nếu không thì cả chiếc giường này phải thấm đầy trong màu đỏ của máu cô gái vì nàng trông vô cùng xanh xao trước khi truyền máu.

"Sao?" Van Helsing hỏi.

"Hơ," tôi nói. "Tôi chẳng hề gây ra nó."

Giáo sư đứng dậy. "Tôi phải trở về Amsterdam tối nay," ông ta nói "Tôi cần một số sách và đồ vật ở đó. Anh phải ở đây suốt đêm và không được rời cô ta lúc nào cả."

"Tôi sẽ là y tá?" tôi hỏi.

"Chúng ta là những y tá tốt nhất, tôi và anh. Anh phải thức trông suốt đêm nay. Hãy chăm sóc cô ta cho tốt, và đừng để việc gì làm xáo trộn cô ta. Anh không được ngủ đêm nay. Sau này chúng ta sẽ ngủ, cả anh và tôi. Tôi sẽ trở về càng sớm càng tốt. Và chúng ta có thể bắt đầu."

"Có thể bắt đầu?" tôi nói. "Thật ra thì ông đang muốn nói cái quái gì thế?"

"Chúng ta sẽ thấy!" ông ta trả lời, và nhanh chóng phóng đi. Lát sau ông ta trở lại , thò đầu vào cửa và vừa nói vừa giơ một ngón tay lên cảnh cáo, "Hãy nhớ, cô ta thuộc về trách nhiệm của anh. Nếu anh rời khỏi cô ta, và có điều khủng khiếp nào xảy ra, thì sau này chẳng bao giờ anh có thể ngủ ngon được nữa!"

NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD – TIẾP THEO

Ngày 8 tháng Chín. – Tôi đã ngồi suốt đêm với Lucy. Thuốc mê đã hết tác dụng vào lúc chạng vạng tối, và thế là nàng tỉnh giấc. Nàng trông khác với lúc trước khi thực hiện cuộc phẫu thuật. Trạng thái tinh thần của nàng rất tốt, và nàng trở nên hoạt bát vui vẻ, nhưng tôi vẩn có thể thấy rõ tình trạng kiệt sức cùng cực mà nàng phải chịu đựng. Khi tôi nói với bà Westenra rằng bác sĩ Van Helsing nói tôi phải ngồi ở đây với nàng, bà gần như bác bỏ hoàn toàn ý kiến này, chỉ ra rằng con gái bà đã phục hồi sức lực và và rất sảng khóai. Tuy nhiên tôi lại rất kiên quyết, và bắt đầu chuẩn bị cho cuộc thức đêm của mình. Khi người hầu gái của nàng đến chuẩn bị cho giấc ngủ của nàng, tôi cũng đi vào, trong khi chờ đợi thì dùng bữa khuya, và lấy một chỗ ngồi cạnh giường.

Nàng không bày tỏ thái độ gì, nhưng nhìn tôi với vẻ biết ơn mỗi khi tôi gặp ánh mắt nàng. Một lúc lâu sau nàng vẫn chưa ngủ, nhưng nàng cố gắng lắm để xua tan cơn buồn ngủ đi. Rõ ràng là nàng không muốn ngủ, và tôi lập tức chặn ngay ý định này lại.

"Em không muốn ngủ à?"

"Không, em sợ lắm."

"Sợ ngủ! Vì sao thế? Đó là điều mà cả hai chúng ta đều muốn."

"A, nếu như anh ở vào tình cảnh như em, thì giấc ngủ nó như một điềm báo trước tai họa!"

"Một điềm báo trước tai họa! Em đang nói đến cái quái quỷ gì thế?"

"Em không biết. Ôi, em chẳng biết nữa. Đó là một cái gì đó khủng khiếp lắm. Tất cả bệnh tật đến với em trong giấc ngủ, đến nỗi em sợ phải nghĩ về nó."

"Nhưng, cô gái thân yêu ạ, tối nay thì em cứ ngủ đi. Anh ở đây trông chừng cho em, và anh hứa là chẳng có gì xảy ra đâu."

"A, em có thể tin tưởng anh mà!" nàng nói.

Tôi bèn chộp lấy cơ hội, nói luôn, "Anh hứa là nếu anh thấy em có bất kỳ biểu hiện gì là đang gặp ác mộng, anh sẽ đánh thức em ngay."

"Anh sẽ làm vậy chứ? Ôi, có thực là anh sẽ làm vậy không? Anh thật là tốt đối với em. Em ngủ đây!" Và gần như cùng lúc khi nói ra những lời đó, nàng thở phào nhẹ nhõm và chìm sâu trở lại vào giấc ngủ ngay.

Vậy là tôi thức canh nàng ngủ suốt cả đêm dài. Nàng chẳng hề cựa mình, và ngủ thật là sâu, êm ả, giấc ngủ mang đến cho nàng cuộc sống và sức khỏe. Môi nàng khẽ hé mở, và ngực nàng phập phồng đều đặn. Một nụ cười hiện ra trên khuôn mặt nàng, rõ ràng là chẳng có cơn ác mộng nào đến khuấy động sự bình yên trong tâm hồn nàng.

Đến sáng sớm thì người hầu gái của nàng đến, và tôi giao lại cho cô ta chăm sóc nàng, rồi trở về nhà mình, vì tôi còn nhiều chuyện phải giải quyết. Tôi đánh những bức điện tín ngắn cho Van Helsing và Arthur, nói với họ về kết quả tuyệt vời của cuộc phẫu thuật. Công việc của riêng tôi thì rất bề bộn, khiến tôi phải ngồi cả ngày để giải quyết. Khi đến đêm thì tôi yêu cầu bản báo cáo về người bệnh nhân cuồng ăn thịt của tôi. Bản báo cáo rất khả quan. Ông ta trầm lặng suốt cả ngày và đêm qua. Điện tín từ Van Helsing tại Amsterdam trong khi tôi đang ăn chiều, đề nghị tôi hãy ở Hillingham tối nay, nếu như có thể sắp xếp được, và nói rằng ông ấy sẽ đi bằng chuyến tàu chuyển thư đêm và gặp tôi vào sáng sớm.

Ngày 9 tháng Chín. – Tôi rất mệt và kiệt sức khi tôi đến Hillingham. Đã hai đêm rồi tôi chẳng hề chợp mắt, và bộ não của tôi gần như tê liệt bởi hết năng lượng. Lucy đang thức và trông rất vui vẻ. Khi nàng bắt tay tôi, nàng nhìn dáng vẻ trên khuôn mặt tôi và nói,

"Anh không có được ngồi canh tối nay đâu đấy nhé. Anh thì mệt lử và em khỏe lại rồi. Và nghe em nói này, nếu như anh mà có ý định ngồi canh, là em sẽ ngồi canh với anh luôn đó."

Tôi chẳng buồn tranh cãi, đi ăn bữa khuya của tôi. Lucy đi với tôi, và với vẻ duyên dáng quyến rũ do sự sôi nổi của nàng, tôi ăn rất ngon miệng, và uống vài cốc rượu vang tuyệt hảo. Sau đó Lucy đi với tôi lên gác, và chỉ cho tôi thấy cái phòng bên cạnh phòng nàng, với một lò sưởi ấm cúng đang rực cháy.

"Nào," nàng nói. "Anh sẽ ở đây. Em sẽ để cửa mở và anh cũng thế. Anh có thể nằm trên ghế xofa và khi người bác sĩ với người bệnh cùng nằm trên một đường ngang không có gì ngăn trở như vậy thì cũng coi như là anh đang coi chừng em. Nếu em muốn điều gì em sẽ gọi, và anh có thể chạy ngay đến chỗ em."

Tôi không thể từ chối được nữa, vì tôi cũng mệt đứ đừ rồi, và không thể ngồi nữa trong trường hợp tôi cứ cố.Vì vậy, sau khi bắt nàng phải hứa lại lần nữa là sẽ gọi tôi nếu nàng cần bất kỳ thứ gì, tôi ngồi trên ghế xofa, và quên ngay tất cả mọi chuyện.

NHẬT KÝ CỦA LUCY WESTENRA

Ngày 9 tháng Chín. – Tôi cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Tôi đã trải qua một căn bệnh khốn khổ, và đã có thể nghĩ ngợi và liên tưởng đến những cảm giác giống như ánh dương xua tan đi một thời kỳ dài của những cơn gió đông. Arthur đã trở nên rất, rất gần gũi với tôi. Tôi nghĩ hơi ích kỷ rằng chính tình trạng yếu đuối và đau ốm của tôi đã khiến chúng tôi chìm vào mắt nhau và trở nên thông cảm với nhau, trong khi sức khỏe và sự khỏe mạnh lại ghìm chế tình yêu của chúng tôi, vì khi đó thì anh ấy lại lang thang ở mãi tận đâu, ở những nơi nào mà anh ấy muốn đi. Tôi biết ý nghĩ của mình mà. Giá mà anh Arthur có thể biết nhỉ! Anh thân yêu ơi, chắc là lúc này tai anh ngứa ran ấy nhỉ, vì chúng ta đang gọi nhau mà. Ôi, giấc ngủ đêm qua thật là hạnh phúc làm sao! Tôi thì ngủ, và bác sĩ Seward tốt bụng thân thương trông chừng cho tôi. Tối nay tôi không sợ phải ngủ nữa, do anh ấy gần một bên và trong tầm gọi. Cảm ơn mọi người đã thật tốt với tôi. Cám ơn Chúa! Chúc ngủ ngon, Arthur.

NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD

Ngày 10 tháng Chín. – Tôi bị đánh thức bởi giáo sư đặt tay lên đầu tôi, lắc thật mạnh làm tôi tỉnh ngay. Đấy là một điều chúng tôi đã được học trong viện điều dưỡng an thần, trong trường hợp khẩn cấp.

"Bệnh nhân của chúng ta thế nào?"

"Ôi, tôi đã rời khỏi cô ấy, đúng hơn là cô ấy rời khỏi tôi," tôi trả lời.

"Đi, chúng ta đi xem," ông ta nói. Và chúng tôi cùng chạy vào phòng.

Bức màn đã rơi xuống, và trong khi tôi nhẹ nhàng nâng nó lên, thì Van Helsing đi thẳng đến giường với những bước chân nhẹ nhàng như mèo.

Khi tôi nâng bức màn lên, nắng sáng tràn vào phòng, tôi nghe thấy giáo sư húyt lên một tiếng nhỏ, và đây là một trong những lần hiếm hoi, tôi cảm thấy một nỗi sợ lan vào đến tận tim. Khi tôi bước qua, ông ấy lui lại, và ông ấy kêu lên khiếp hãi, "Gott in Himmel!", không cần phải giải thích gì thêm qua vẻ mặt kinh hoàng của mình. Ông ấy giơ tay và chỉ lên giường, khuôn mặt thép của ông ấy u ám và chuyển sang màu trắng xám. Tôi cảm thấy đầu gối của mình bắt đầu run lên.

Nằm bất tỉnh trên giường là Lucy tội nghiệp, trông trắng bệch và vàng vọt một cách kinh khủng hơn bao giờ hết. Môi nàng trắng tóat, lợi co lại từ răng, giống như chúng ta đôi khi vẩn thường ở những thi hài sau những căn bệnh kéo dài.

Van Helsing giơ mạnh chân lên để nện xuống giận dữ, nhưng bản năng của một cuộc sống nhiều năm đấu tranh đã giữ ông lại, và ông ta đặt chân xuống nhẹ nhàng.

"Nhanh!" ông ta nói. "Mang rượu mạnh vào đây."

Tôi lao vào phòng khách và mang vào một cái bình thon cổ. Ông ta đổ lên đôi môi trắng bệch đáng thương kia, và chúng tôi cùng nhau chà xát lòng bàn tay, cổ tay và tim nàng. Ông ấy nghe tim nàng, và sau một thoáng đau khổ dừng lại nói,

"Không phải là quá trễ. Nó vẩn còn đập, nhưng yếu lắm. Những gì chúng ta đã làm như vậy là hỏng cả rồi. Cần phải bắt đầu lại từ đầu. Lúc này không có anh chàng Arthur trẻ tuổi ở đây. Buộc lòng tôi phải gọi đến anh lần này, bạn John." Trong khi ông ta nói, ông lục trong túi lấy ra những dụng cụ truyền máu. Tôi cởi áo khoác và xắn cao tay áo sơ mi. Chưa chuẩn bị để gây mê, nhưng có lẽ cũng không cần, vì vậy, sau một thóang chần chừ, chúng tôi bắt đầu ca phẫu thuật.

Ông ta hơi ngần ngừ, dù đó chỉ một khỏang thời gian ngắn, bởi vì cái cảm giác hút máu của một con người, dù người ấy tự nguyện như thế nào, cũng là một cảm giác khủng khiếp.Van Helsing giơ một ngón tay cảnh cáo. "Không được cử động," ông ta nói. "Nhưng tôi sợ rằng khi sức khỏe khá hơn cô ấy có thể cử động, và tạo ra nguy hiểm, ồ, điều đó rất nguy hiểm. Nên tôi phải dự trù trước điều này. Tôi sẽ tiêm vào dưới da cô ấy một liều morphin." Ông ta tiến hành ngay việc này một cách nhanh nhẹn và khéo léo.

Những sự chuẩn bị cho Lucy như vậy không thừa, cơn ngất trộn lẫn với thuốc mê đã tạo nên một giấc ngủ êm dịu. Một cảm giác tự hào rất nhân bản khi tôi thấy những sắc màu bị trộm đi trong cơn ngất trên đôi má và đôi môi vàng vọt kia đang dần trở lại. Cho đến khi nào tự mình tận tay làm, thì không người đàn ông nào có thể biết được cảm giác của mình khi thấy dòng máu của chính mình chạy trong huyết mạch của người phụ nữ mà mình yêu thương.

Giáo sư nhìn tôi một cách cương quyết. "Đủ rồi," ông ta nói. "Thế ư?" tôi phản đối. "Ông đã cho Arthur truyền nhiều hơn." Để trả lời, ông ta nở một nụ cười buồn bã.

"Anh ta là người yêu, là vị hôn phu của cô ấy. Anh còn phải làm việc, làm nhiều việc cho cô ta và còn cho nhiều người khác nữa. Như vậy là đủ rồi."

Khi chúng tôi chấm dứt cuộc phẫu thuật, ông ta chăm sóc cho Lucy, trong khi đó tôi ép mạnh lên vết thương của mình. Tôi nằm xuống, chờ ông ấy khi rảnh tay sẽ chăm sóc cho tôi, vì tôi cảm thấy chóang và yếu đi nhiều. Bây giờ thì ông ta băng bó xong vết thương của tôi, đưa tôi xuống uống một cốc rượu mạnh. Khi tôi rời khỏi phòng, ông ta đi sau tôi, nhếch mép cười.

"Không có từ ngữ nào diễn tả được tâm hồn con người. Nếu anh chàng si tình trẻ tuổi của chúng ta đột ngột xuất hiện như lần trước, thì đừng nói gì với anh ta. Nó sẽ khiến anh ta đau khổ và ghen tức đấy. Vì vậy, không nói một lời nào cả. Thế đấy!"

Khi tôi trở về phòng, ông ta liếc nhìn tôi cẩn thận, và lên tiếng, "Anh không đến nổi yếu lắm. Đi vào phòng, nằm lên ghế xofa và nghỉ ngơi một lát, rồi ăn một bữa sáng thật nhiều và sau đó lên đây với tôi."

Tôi tuân theo lệnh của ông ta, tôi biết đó là những quyết định chính xác và sáng suốt. Tôi đã làm xong phần mình, và bây giờ bổn phận tiếp theo của tôi là phải duy trì sức khỏe của mình. Tôi cảm thấy rất yếu, và trong sự yếu ớt đó là sự kinh ngạc trước những gì xảy ra. Tôi nằm ngủ trên ghế xofa, nhưng vẩn vẩn vơ tự hỏi lại không biết vì sao mà Lucy lại đến nông nổi ấy, làm sao mà nàng lại mất nhiều máu đến thế mà không có dấu hiệu gì chỉ dẩn xem số máu ấy đi đâu. Tôi nghĩ rằng hẳn là tôi lại tiếp tục nỗi băn khoăn của mình trong giấc ngủ, do đó, trong khi ngủ tôi lại thấy trở lại những lỗ nhỏ trên cổ họng nàng, với những đường cạnh yếu ớt, xù xì, dù cho chúng vô cùng nhỏ.

Lucy ngủ ngon trong suốt cả ngày, và khi nàng tỉnh giấc nàng cảm thấy tỉnh táo và khỏe mạnh, dù không bằng được ngày hôm trước. Khi Van Helsing thấy nàng tỉnh dậy, ông ta ra ngòai đi dạo một lát, và giao nàng lại cho tôi, với lời huấn thị nghiêm khắc rằng không được để nàng một mình dù trong khỏanh khắc. Tôi có thể nghe giọng ông ta vang lên trong tiền sảnh, hỏi đường đến trạm điện tín nào gần nhất.

Lucy nói chuyện với tôi về đủ mọi thứ, hình như nàng chẳng biết gì về những chuyện đã xảy ra. Tôi cố giữ cho nàng vui vẻ và sảng khóai. Khi mẹ nàng vào thăm nàng, bà không biết những sự thay đổi đã diễn ra, và nói với tôi với vẻ biết ơn.

"Chúng tôi nợ ông nhiều lắm, bác sĩ Seward, vì tất cả những gì mà ông đã làm, nhưng ông nên thật sự lo cho chính mình. Ông trông cũng xanh xao lắm rồi đó. Ông nên có một người vợ để chăm sóc và trông nom cho ông, ông ạ!" Trong khi bà nói, Lucy đỏ bừng mặt, nhưng chỉ trong thóang chốc, vì những mạch máu khô cạn tội nghiệp của nàng không đủ máu để truyền nhiều lên đầu. Nàng càng trở nên quá mức xanh xao khi phản ứng bằng cách đưa đôi mắt cầu khẩn nhìn tôi. Tôi mỉm cười và gật đầu, đưa ngón tay lên môi. Nàng thở phào, nằm trở lại trên gối. Van Helsing trở lại vài giờ sau, và ngay lập tức nói với tôi. "Bây giờ thì anh đi về, ăn nhiều và uống cho thỏa thích. Hãy giữ cho mình khỏe mạnh. Tôi ở đây tối nay và đến phiên tôi sẽ ngồi trông chừng. Anh và tôi phải theo dõi trường hợp này, và chúng ta đừng để cho ai biết. Tôi có lý do chính đáng. Nào, đừng có hỏi gì cả. Muốn nghĩ gì thì nghĩ. Đừng sợ suy nghĩ dù cho đó là những giả thuyết phi lý nhất. Tạm biệt."

Trong tiền sảnh có hai người hầu gái đến gặp tôi, và yêu cầu cho một trong số họ có thể ngồi trông cô Lucy. Họ van nài tôi cho phép họ, và khi tôi nói rằng bác sĩ Van Helsing chỉ muốn ông ấy hoặc tôi ngồi trông chừng thôi, thì họ nói tôi hãy cố năn nỉ 'quý ông ngoại quốc' đó. Tôi động lòng bởi lòng tốt của họ. Có thể bởi vì lúc này tôi rấy yếu, hoặc cũng có thể do sự tốt bụng của Lucy, khiến họ hết lòng tận tụy với nàng. Trong một thóang chốc tôi cảm thấy mình trở nên dễ xúc động như phụ nữ. Tôi trở lại đây vừa kịp ăn một bữa trưa hơi trễ, kiểm tra mọi việc, chúng đều tốt đẹp, và tôi kiểm tra lại mọi việc trong khi chờ đi ngủ. Bây giờ thì mọi việc đã xong.

Ngày 11 tháng Chín. Trưa hôm nay tôi trở lại Hillingham. Tôi thấy Van Helsing đang rất cao hứng, còn Lucy trông khá hơn nhiều. Một lúc sau khi tôi đến, có một gói hàng chuyển đến cho giáo sư. Tất nhiên là ông ta dành ngay lấy phần mở nó và lấy ra một bó hoa trắng,

"Cái này là cho cô, cô Lucy," ông ta nói.

"Cho tôi? Ôi, bác sĩ Van Helsing."

"Vâng, cô bạn, nhưng không phải để cô vui chơi với nó đâu. Chúng là thuốc đó." Lúc này Lucy bắt đầu có vẻ ngơ ngác."Nào, nó không phải để sắc thành thuốc hay biến thành một thứ gì đó tanh nồng đâu, vì vậy cô đừng có hếch cái mũi quyến rũ của cô lên như thế, hoặc là tôi sẽ chỉ cho anh bạn Arthur của tôi thấy sự đau khổ mà anh ta phải gánh chịu khi thấy cái sắc đẹp tuyệt vời mà hắn say đắm lại trở thành méo mó thế kia. Đây là thuốc, nhưng cô không cần biết. Tôi sẽ để nó lên cửa sổ, rồi tôi kết thành một vòng hoa xinh xinh chòang qua cổ cô như thế này, và cô sẽ ngủ ngon. A, vâng! Chúng giống như những đóa sen sẽ khiến cô quên đi những đau khổ của mình. Nó có mùi giống thứ nước lãng quên ở âm phủ, và giống như nguồn nước tuổi trẻ mà Conquistadores đã mang lại một cách muộn màng cho Florida."

Trong khi ông ta nói, Lucy xem xét bó hoa và ngửi chúng. Rồi nàng ném chúng xuống và cất tiếng, nữa cười cợt, nữa ghê tởm,

"Ôi, giáo sư, tôi tin là ngài chỉ định đùa với tôi. Xem này, những đóa hoa này chỉ đơn thuần là hoa tỏi mà thôi."

Trước sự ngạc nhiên của tôi, Van Helsing đứng dậy và nói bằng một giọng nghiêm khắc, chiếc cằm thép của ông nhô lên và đôi lông mày rậm nhíu lại,

"Đừng có coi thường tôi! Tôi bao giờ đùa nhạo cả! Đấy là một mục đích tột cùng mà tôi muốn đạt đến, và tôi cảnh cáo cô đừng có cản trở nó. Hãy cẩn thận, bởi vì tôi làm chuyện này còn cho những người khác chứ không phải chỉ cho cô." Đoạn thấy Lucy tội nghiệp tỏ ra sợ hãi, dưới tác dụng hiển nhiên của những lời nói này, ông ta tiếp tục dịu dàng hơn, "Ôi, cô gái nhỏ, cô bạn thân, đừng sợ tôi.Tôi chỉ làm điều tốt cho cô thôi, và những đóa hoa tầm thường này có lợi cho cô nhiều lắm. Xem này, tôi tự tay đem chúng vào phòng cô. Tôi cũng tự tay kết thành vòng hoa cho cô đeo. Nhưng phải im lặng nhé! Đừng có nói với ai để họ đâm ra tò mò. Chúng ta phải tuân lệnh, và im lặng chính là một phần của sự vâng lời, và sự vâng lời sẽ mang lại cho cô sức khỏe để cô có thể ngã mình vào những cánh tay âu yếm đang chờ đợi cô. Nào, ngồi đó một lát nhé. Còn bạn John, đi với tôi nào, anh sẽ giúp tôi trang hòang căn phòng bằng những cây tỏi này, chúng được mang đến từ Haarlem, nơi anh bạn Vanderpool của tôi trồng chúng trong những nhà kiếng quanh năm. Tôi đánh điện vào hôm qua để hôm nay chúng có ở đây."

Chúng tôi đi vào phòng, mang hoa theo. Giáo sư bắt đầu tiến hành công việc theo một cách rất lạ lùng mà tôi chưa hề nghe thấy trong một trình dược thư nào. Đầu tiên ông ta đóng chặt cửa sổ và cài then cẩn thận. Rồi ông ta nắm đầy những bông hoa, chà xát chúng trên những khung cửa, cố làm sao cho tòan bộ không khí thổi vào đều tràn ngập mùi tỏi. Rồi với một bó tỏi khác ông ta chà xát trên tất cả các thanh cửa, trên, dưới, mỗi cạnh, rồi chà quanh lò sưỡi y như vậy. Mọi việc xem ra quá kỳ cục, và tôi liền lên tiếng, "Giáo sư à, tôi biết ông luôn có những lý do cho việc làm của mình, nhưng lần này xem ra khó hiểu quá. May là ở đây không có một anh chàng hay hòai nghi nào, nếu không hắn sẽ nói là ông đang làm một số bùa chú để xua đuổi những linh hồn ma quỷ."

"Có thể là tôi đang làm như vậy đấy!" Ông ta lặng lẽ trả lời khi ông kết một chuỗi hoa để Lucy quàng qua cổ.

Chúng tôi đợi cho Lucy chuẩn bị đi ngủ, và khi nàng lên giường, ông ta đến và tự tay quàng chuỗi hoa tỏi quanh cổ nàng. Những lời cuối cùng ông nói với nàng là,

"Hãy cẩn thận, đừng làm nát chúng, và thậm chí nếu như căn buồng này có vẻ ngột ngạt như thế nào đi nữa, cũng đừng mở bất kỳ cửa sổ hay cửa chính.

"Tôi xin hứa," Lucy nói. "Và ngàn lần cám ơn ngài vì lòng tốt của ngài! Ôi, tôi phải làm gì để đền đáp cho những người bạn như thế này nhỉ?"

Khi chúng tôi trở về nhà, trong sự nôn nóng của tôi, Van Helsing nói, "Tối nay tôi có thể ngủ ngon, và đó là giấc ngủ tôi cần, sau hai đêm rong ruổi, một ngày giữa chúng thì dùng để đọc, ngày tiếp theo thì sống trong lo âu, đến đêm thì ngồi trông chừng, chẳng dám nháy cả mắt. Đến sáng sớm mai thì anh đánh thức tôi, chúng ta sẽ đến thăm cô gái nhỏ của chúng ta, để thấy những 'bùa chú'của tôi công hiệu đến mức nào. Hô hô!"

Ông ta tỏ ra tự tin khiến tôi nhớ lại chính vẻ tự tin của mình hai đêm trước với một kết cục bi thảm sau cùng, tôi lo lắng và sợ hãi một cách mơ hồ. Có lẽ do sự yếu đuối của mình nên tôi ngần ngại không nói điều đó ra với bạn mình, nhưng càng lúc tôi càng cảm thấy rõ cảm giác này, nó long lanh như những giọt lệ thầm.
Về Đầu Trang Go down
Ku.Péo
Thành viên V.I.P
Thành viên V.I.P
Ku.Péo


Points : 745
Bạn được Thanks: : 1
Join date : 25/09/2009
Age : 30
Đến từ : Trung Quốc
Humor : Funny Face ^^

Ác quỉ Dracula - Chương 7-8-9-10-11 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác quỉ Dracula - Chương 7-8-9-10-11   Ác quỉ Dracula - Chương 7-8-9-10-11 Icon_minitime11/10/2009, 5:38 pm

Ác quỉ Dracula - Chương 11

NHẬT KÝ CỦA LUCY WESTENRA

Ngày 12 tháng 9. – Mọi người bọn họ đều thật tốt với tôi. Tôi rất mến ông bác sĩ Van Helsing thân thương. Tôi tự hỏi vì sao ông ta lại tỏ ra lo âu về những đóa hoa này. Ông ta đã làm tôi hết hồn, trông ông hung hăng quá. Nhưng chắc là ông ấy phải đúng thôi, những bó hoa này sẽ làm cho tôi được yên ổn. Ở một chừng mực nào đó, tôi không còn sợ phải ở một mình tối nay nữa, và tôi có thể đi ngủ mà chẳng sợ gì. Tôi sẽ chẳng buồn quan tâm đến những tiếng sột sọat bên ngòai cửa sổ nữa.Ôi, dạo gần đây tôi phải đối mặt với những sự việc kinh khiếp làm sao, nỗi đau khổ về chứng mất ngủ, hay đúng hơn là sợ phải đi ngủ, và những nổi khủng khiếp bí ẩn nào đó cứ đe đọa tôi! Những người khác thật là hạnh phúc, họ sống mà chẳng có sợ hãi, chẳng kinh hòang, họ đi ngủ khi đêm đến, và trong giấc ngủ chẳng có gì quấy rầy họ ngòai những cơn mộng đẹp. Được rồi, tối nay tôi sẽ nằm đây, hy vọng là sẽ ngủ ngon lành, giống như Ophelia trong vở kịch, 'với những ước mơ và hy vọng của người trinh nữ.' Trước đây tôi chưa hề ưa tỏi, nhưng tối nay thì chúng trông thật tuyệt! Thật là một mùi vị êm ái. Tôi cảm thấy giấc ngủ đang đến đây. Tạm biệt, mọi người.

NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD

Ngày 13 tháng 9. – Tôi được gọi đến Berkeley và thấy Van Helsing, như thường lệ, đã sẳn sàng. Một cỗ xe đã đợi sẳn từ khách sạn. Giáo sư mang theo cái túi, dạo gần đây lúc nào ông cũng có nó bên người.

Nào, hãy ghi chép lại cho thật chính xác nào. Van Helsing và tôi đến Hillingham lúc tám giờ. Thật là một buổi sáng đáng yêu. Ánh mặt trời rực rỡ và không khí trong lành của một buổi sáng sớm mùa thu khiến mọi người cảm thấy thiên nhiên đang thực hiện công việc hàng năm của mình một cách hòan hảo. Những chiếc lá nhuộm mình trong những sắc màu xinh đẹp khác nhau, nhưng vẩn chưa chịu buông rơi khỏi cành. Khi đến nơi, chúng tôi gặp bà Westenra đi ra khỏi phòng khác. Bà luôn là người dậy sớm. Bà đón chúng tôi rất nồng ấm và nói,

"Các ông chắc là sẽ vui lắm khi biết rằng Lucy đã khá hơn. Con bé đáng yêu ấy vẩn còn đang ngủ. Tôi đã nhìn vào phòng nó và thấy nó, nhưng sợ đánh thức nó nên không bước vào." Giáo sư mỉm cười, và trông có vẻ rất khóai trá. Ông xoa tay vào nhau, lên tiếng, "Aha! Tôi nghĩ là tôi có thể chẩn bệnh cho ca này. Cách chữa bệnh của tôi là làm việc mà."

Bà ấy trả lời,"Ngài đừng có dành hết công lao đấy nhé. Sáng nay Lucy khỏe lại cũng có phần của tôi đấy nhé."

"Bà muốn nói gì thưa bà?" giáo sư hỏi

"À, tối hôm qua tôi rất lo cho con bé đáng yêu ấy, nên đã đi vào phòng nó. Nó đang ngủ say, nên những tiếng động của tôi không làm cho nó thức giấc. Nhưng trong phòng ngột ngạt quá. Nó đầy những bông hoa có cái mùi nặng nề, kinh tởm và con bé còn đeo một tràng khác quanh cổ nó nữa. Tôi sợ là bầu không khí nặng nề như vậy sẽ có hại cho thể trạng ốm yếu của con bé, nên tôi mang sạch chúng ra ngòai, rồi mở cửa sở ra để đón một ít không khí trong lành. Tôi chắc là sáng nay ông sẽ hài lòng khi thấy nó."

Bà ta đi vào phòng riêng của mình. Bà thường dùng bữa sáng của mình ở đấy. Trong khi bà đang nói, tôi quan sát khuôn mặt của giáo sư, và thấy nó đang trở nên tái xám. Ông ta chỉ có thể giữ được sự quân bình khi người đàn bà tội nghiệp kia còn đang ở đó, bởi vì ông biết sự đau yếu của bà và một cú sốc có thể gây ra tác hại như thế nào. Ông ta còn cố mỉm cười với bà khi ông mở cửa cho bà vào phòng. Nhưng ngay khi bà ta vừa biến mất thì ông đột ngột và mạnh mẽ kéo tôi phăng phăng vào phòng ăn và đóng cửa lại.

Và, lần đầu tiên trong đời mình, tôi thấy Van Helsing kiệt sức. Ông giơ tay lên ôm đầu trong nỗi đau khổ câm lặng, và đấm vào lòng bàn tay mình một cách tuyệt vọng. Cuối cùng ông ngồi xuống ghế, đưa hai tay che mặt, và bắt đầu khóc, với những tiếng nức nở khô, nặng như đang tóat ra từ trái tim tan vỡ của ông ấy.

Rồi ông ta giơ hai tay lên, như thể đang khẩn cầu với tòan vũ trụ. "Chúa ơi! Chúa ơi! Chúa ơi!" ông ta nói. "Chúng con đã làm gì, những con người tội nghiệp này đã làm gì, để rồi chúng ta phải chìm vào khổ ải như thế này? Phải chăng cái định mệnh từ cái thế giới man rợ cổ xưa ấy vẩn dai dẳng bám theo chúng con, nó vẩn tiếp tục diễn ra, vẩn tiếp tục hòanh hành? Người mẹ tội nghiệp, chẳng hay biết gì, cứ nghĩ là mình đã làm những gì tốt nhất cho con gái mình, nhưng không biết là bà đã đánh mất đi cả thể xác lẩn linh hồn của con mình, và chúng ta không được nói cho bà biết, thậm chí không được cảnh báo bà, nếu không bà ấy sẽ chết, cả hai sẽ chết. Ôi, chúng ta cùng đường rồi! Cái thế lực ma quái đang đối chọi với chúng ta thật là ghê gớm!"

Thình lình ông ta nhảy bật dậy. "Đi nào," ông ta nói, "chúng ta phải đến xem xét và hành động. Ma quỷ hay không ma quỷ, hay là cả lũ ma quỷ ấy đến đây cùng lúc, thì cũng kệ thây chúng. Chúng ta sẽ giao chiến với nó, dù thế nào đi nữa."

Một lần nữa tôi lại trở nên hóa đá, trong khi Van Hensing đi thẳng đến giường. Lần này ông ta không nhìn ngay lên khuôn mặt xinh đẹp với cái vẻ xanh xao như sáp đầy khủng khiếp đó nữa. Ông ta nhìn với vẻ buồn bã sâu lắng và lòng thương cảm không giới hạn.

"Như tôi đã đóan trước," ông ta lẩm bẩm, với tiếng húyt vào đặc trưng nhiều ý nghĩa của mình. Không nói thêm lời nào, ông đi khóa cửa lại, rồi bắt đầu bày ra trên cái bàn nhỏ những dụng cụ để bắt đầu một cuộc phẫu thuật truyền máu khác. Tôi đã thấy trước công việc bắt buộc này. bắt đầu cởi áo khoác, nhưng ông ta ngăn tôi bằng bàn tay nóng bỏng. "Không!" ông ta nói."Hôm nay anh tiến hành phẫu thuật. Tôi sẽ cho máu. Anh vẩn còn yếu lắm." Và ông ta bắt đầu cởi áo khoác và xăn tay áo.

Lại một cuộc phẫu thuật nữa. Lại một lần đánh thuốc mê nữa. Một lần nữa những sắc màu được trả về trên đôi má xám tro, và hơi thở nàng trở lại bình thường trong giấc ngủ sâu. Lần này tôi trông nom nàng trong khi Van Helsing tự chăm sóc mình và nghỉ ngơi.

Sau đó ông ta tìm cơ hội nói chuyện với bà Westenra, để nói cho bà biết là đừng có lấy đi bất kỳ thứ gì trong phòng Lucy mà không báo cho ông. Những bông hoa là thuốc chữa bệnh, và thở cái không khí nồng nặc mùi của chúng mà một phần trong phương pháp điều trị. Rồi ông ta tiếp tục tự chăm sóc mình, nói rằng đêm nay và đêm sau ông ta sẽ thức trông, và sẽ kêu tôi đến khi nào đúng lúc.

Một lúc sau, Lucy tỉnh dậy, tươi tỉnh và sảng khóai, nàng hầu như chẳng hay biết chút gì về sự thử thách khủng khiếp của mình.

Tất cả những cái này nghĩa là gì? Tôi sợ là việc tôi đã sống một thời gian dài giữa những người mất trí đã bắt đầu tác động lên trí não của chính mình.

NHẬT KÝ CỦA LUCY WESTENRA

Ngày 17 tháng Chín. – Đã bốn ngày đêm trôi qua bình yên. Tôi trở lại khỏe mạnh đến nỗi chính tôi cũng không nhận biết được những gì xảy ra với mình. Có vẻ như là tôi vừa trải qua một cơn ác mộng dài, và bây giờ vừa tỉnh dậy để đón những tia nắng sáng rực rỡ và hít thở bầu không khí trong lành bao quanh mình.Tôi chỉ còn nhớ lờ mờ về một thời gian dài phiền muộn trong đợi chờ và sợ hãi, đen tối đến nỗi những hy vọng chỉ càng làm cho nỗi đau khổ trong hiện tại càng thêm cay đắng. Đó là một thời kỳ dài đầy quên lãng, và bây giờ tôi nhảy trở vào cuộc sống như là nhảy vào một dòng nước lớn.Từ dạo đó, dù bác sĩ Van Helsing vẩn ở bên tôi, nhưng những cơn ác mộng dường như đã qua hẳn rồi. Những tiếng động vẩn thường làm tôi kinh sợ đã ra khỏi tâm trí tôi, những tiếng vỗ cánh sột soạt ở ngòai cửa sổ, những giọng nói xa vắng nhưng lại rất gần với tôi, những âm thanh kinh khiếp đến từ đâu tôi không biết và ra lệnh cho tôi làm những việc mà tôi cũng không ý thức được, tất cả đã chấm dứt. Tôi lên giường mà không còn sợ giấc ngủ. Thậm chí tôi không cần phải cố giữ mình cho tỉnh táo. Càng ngày tôi càng thích mùi tỏi, và mỗi ngày người ta lại gửi cho tôi một thùng đầy từ Haarlem. Tối nay bác sĩ Van Helsing có việc phải đi, và ông ta phải ở lại cả ngày ở Amtersdam. Nhưng tôi không cần phải trông chừng nữa. Tôi đã đủ khỏe mạnh để ở một mình rồi.

Xin cám ơn tấm lòng của Mẹ, anh Arthur thân yêu, và cho tất cả những người bạn đã tỏ ra thật tốt với tôi! Thậm chí tôi không thấy có gì biến đổi, khi mà tối hôm qua bác sĩ Van Helsing ngủ suốt trên chiếc ghế của ông. Tôi thấy ông ngủ hai lần khi tôi tỉnh giấc. Nhưng tôi chẳng sợ gì mà cứ ngủ tiếp, dù có tiếng vỗ cánh của một con dơi hay một tiếng động sột soạt nào đó, đầy giận dữ bên ngòai cửa sổ.

NHẬT BÁO PALL MALL, ngày 18 tháng Chín.

CUỘC PHỎNG VẤN CỦA CHÚNG TÔI VỀ CHUYẾN MẠO HIỂM GÂY CẤN CỦA MỘT CON SÓI TRỐN CHẠY.

PHỎNG VẤN VỚI NGƯỜI CANH GÁC VƯỜN THÚ.

Sau nhiều lần yêu cầu và nhiều lần bị từ chối, thì cuối cùng tờ "Nhật báo Pall Mall" cũng tìm thấy vận may quen thuộc của mình, tôi đã cố tìm được người canh gác vùng đất Vườn Thú, và cả khu đất bên trong. Thomas Bilder sống trong một ngôi nhà tranh trong khu rào đằng sau chuồng voi, và đang ngồi uống trà khi tôi tìm đến. Thomas và vợ ông ta là những con người đứng tuổi, mến khách, và nếu lấy sự đón tiếp tôi làm mẫu cho cuộc đón khách của họ đối với những người khách vô thưởng vô phạt, thì cuộc sống của họ cũng khá đầy đủ. Người gác vườn nhất định chưa chịu bắt đầu cái mà ông ta gọi là công việc làm ăn đến khi bữa khuya đã xong, và chúng tôi đã no nê. Sau khi bàn đã dọn xong, ông ta đốt tẩu, và nói,

"Nào, thưa ngài. bây giờ thì ngài có thể bắt đầu hỏi tôi những gì ngày muốn. Xin ngài thứ lỗi là tôi đã từ chối nói chuyện trước bữa ăn. Tôi sẽ cho bọn chó sói, chó rừng, linh cẩu trong vùng đất của chúng ta bữa trà của chúng trước khi tôi bắt đầu hỏi chuyện chúng."

"Ông nói như thế nào ạ, hỏi chuyện chúng à?" tôi đối đáp, hy vọng sẽ khiến cho người đối thoại trở nên cởi mở.

"Tất cả bọn chúng trên trái đất này, ở tận vùng cực đi nữa, đều như nhau thôi. Nói thẳng vào tai chúng chỉ là nước đổ lá khoai, giống như bọn trai trẻ khoe khoang hợm hĩnh trước lũ con gái của chúng. Nếu muốn nói chuyện với nó, thì trước tiên tôi phải quăng ra cho nó vài miếng ăn, đợi chúng chén và uống cà phê xong xuôi, rồi tôi mới bắt đầu thì thào vào tai chúng. Thưa ngài." ông ta thêm vào một cách triết lý, "bản năng tự nhiên của chúng ta cũng giống như lũ vật ấy thôi. Ngài đến đây và hỏi tôi về công việc của tôi, và tôi trả lời chỉ để làm vui lòng ngài. Thậm chí nói một cách châm biến là khi ngài hỏi tôi thì tôi muốn ngài hỏi cấp trên của tôi xem ngài có thể hỏi tôi vài câu hỏi hay không. Tôi nói như vậy có xúc phạm ngài không ạ?"

"Không sao."

"Và để trả lời cho bài báo của ngài thì tôi dùng cái thứ ngôn ngữ thô thiển đã đi với tôi suốt cả thế giới này. Nhưng bây giờ với tôi mọi chuyện đã ổn. Tôi không còn phải chiến đấu nữa, và tôi đợi thức ăn, đợi bữa ăn của mình giống như bọn chó sói và sư tử quanh đây. Và, tận hưởng những vui thú của cuộc đời, khi có một người đàn bà quen thuộc mang cho tôi bữa trà, làm tôi ấm lòng với ấm trà cũ kỹ, tôi đốt cái tẩu của mình, thì ngài có thể phun vào tai tôi tất cả những gì ngài muốn, mà thậm chí sẽ chẳng nhận tiếng gầm gừ nào từ tôi. Nào, hãy bắt đầu những câu hỏi của ngài. Tôi biết ngài muốn gì rồi, con chó sói trốn thóat phải không."

"Đích thị. Tôi muốn biết quan điểm của ngài về vụ này. Hãy nói với tôi xem nó đã xảy ra như thế nào, và khi đã rõ các sự kiện tôi muốn ngài nói về những suy nghĩ của ngài về nguyên nhân vụ này, ngài nghĩ rằng tất cả những chuyện này sẽ kết thúc như thế nào."

"Được rồi, thưa ngài. Đây là là một câu chuyện thú vị đấy. Đấy là một con sói mà chúng tôi gọi là Bersicker, một trong ba con xám được chuyển từ Nauy đến Jamrach, và chúng tôi mang về đây đã bốn năm. Nó là một con sói dễ thương, chẳng bao giờ gây rắc rối khi chúng tôi muốn nói chuyện. Tôi rất ngạc nhiên khi nó lại muốn bỏ trốn, chẳng như các con thú khác trên vùng đất này. Thế đấy, ngài không thể tin được chó sói và phụ nữ."

"Đừng có nghe lời ông ta, thưa Ngài!" bà Tom ngắt lời, với một tràng cười ngặt nghẽo."Ông ta sống giữa lũ động vật hoang quá lâu rồi nên chính ông ta riết rồi cũng giống như một con sói thật thụ! Nhưng ông ta chẳng gây hại gì đâu."

"Vâng, thưa ngài. lúc đó là khỏang hai giờ sau giờ cho thú ăn hôm qua, thì tôi gặp sự rắc rối đầu tiên. Tôi đang đi qua khỏi khu chuồng khỉ để thăm một con báo trẻ bị ốm. Nhưng ngay khi tôi nghe thấy tiếng gào và tiếng tru tôi liền chạy đến ngày. Con Bersicker đang gào rống như đang lên cơn điên, cào cấu thanh chắn như muốn thóat ra ngòai. Lúc đó chẳng có nhiều khách thăm, và chỉ có một người khách đứng sát bên, một thằng cha cao, gầy, mũi cao và cằm nhọn, với một hàm răng trắng tóat. Hắn có cái nhìn lạnh lùng, đăm đăm, và tôi không ưa hắn chút nào, có những loại người luôn làm người khác phát cáu như vậy đấy. Hắn mang một đôi găng tay trắng, và hắn chỉ vào con vật rồi nói với tôi. "Anh gác thú, những con sói kia có vẻ có vấn đề đấy."

"'Có thể là do ông đấy', tôi nói, vì tôi không ưa cái không khí mà thằng cha này mang lại. Hắn chẳng hề tỏ ra giận dữ như tôi hy vọng, mà hắn mỉm cười một cách xấc láo, với một đôi hàm răng đầy đặn, trắng tóat và sắc bén. 'Ồ không, chúng có vẻ không thích tôi,' hắn bảo.

"'Ồ vâng, chúng như thế đấy', tôi nói, bắt chước hắn. 'Chúng luôn thích một hoặc hai khúc xương để làm sạch răng vào buổi trà, mà hình như ông có một túi đầy thì phải.'

"Ờ, cũng thật là lạ, khi mà chúng tôi nói chuyện, bọn thú vật cứ nằm mọp xuống, rồi tôi đến bên Bersicker để ve vuốt tai nó như thường lệ. Đoạn người đàn ông kia cũng đi đến, và Chúa ôi, ông ta cũng đưa tay vân vê tai con chó sói!"

"'Cẩn thận,' tôi nói. 'Bersicker nó nhanh lắm đấy.'

"'Chẳng sao,' ông ta nói. 'Tụi nó đều từng là của tôi mà!'

"'Tự ngài kinh doanh chúng sao?" tôi nói, ngã mũ, bởi vì những người buôn bán chó sói đều là bạn tốt của người gác thú.

"'Không' ông ta nói,'không chính xác là công việc kinh doanh, nhưng tôi có nhiều con thú nuôi như thế.' và ông ta nhấc mũ lên với một phong cách quý phái như một ông chủ, rồi bỏ đi. Con Bersicker nhìn chăm chăm theo ông ta cho đến khi ông ta đi khuất, đoạn nằm mọp xuống ở một góc và không buồn di chuyển trong suốt cả buổi chiều ấy. Rồi đến tối hôm qua, ngay khi mặt trăng vừa lên, những con sói bắt đầu tru lên. Chẳng có gì đáng cho chúng tru lên như vậy. Không có ai ở gần bên, ngoại trừ một thứ tiếng mà rõ ràng là lời kêu gọi của một con chó lởn vởn đâu đó ở con đường công viên phía sau khu vườn thú. Tôi có ra đó một hai lần để xem mọi thứ có ổn hay không, và đột ngột, những tiếng sói kia im bặt. Ngay trước mười hai giờ, tôi định đi ra xem lại một lần nữa xem sao, nhưng khi tôi đến chỗ chuồng con Bersicker già thì tôi thấy hàng rào bị bẻ gãy và cuộn xoắn lại, còn chuồng thì rỗng không. Đó là tất cả những gì tôi biết."

"Có ai thấy được điều gì khác nữa không?"

"Một trong những người thổi kèn đi gần chỗ vườn thú lúc đó nói rằng hắn ta thấy bóng một con chó xám lớn phóng ra khỏi cạnh vườn thú. Cuối cùng, dù hắn nói như thế, nhưng tôi không tin lắm, bởi vì hắn chẳng hề nói tiếng nào khi hắn về tới nhà, chỉ sau khi việc con sói trốn thóat được làm rầm lên, chúng tôi tổ chức tìm kiếm Bersicker suốt đêm trong công viên , thì hắn mới nhớ ra là có nhìn thấy cái gì đó. Tôi cho rằng chính tay khổi kèn đó đã tự nghĩ ra mọi thứ."

"Nào, thưa ông Bilder, ông có thể nhận định như thế nào về việc con sói bỏ trốn này hay không?"

"Thưa Ngài,"ông ta nói, với một vẻ khiêm tốn đáng nghi, "Tôi nghĩ là tôi có một giả thuyết, nhưng không biết là ngài có hài lòng với nó không."

"Tất nhiên là tôi rất vui mừng được nghe. Nếu một người như ông, với bao nhiêu kinh nghiệm tích tụ được về thú vật, lại không đưa lên một sự phỏng đóan nào, thì còn ai có thể làm được."

"Ờ, thưa Ngài, tôi nhận định như thế này. Đối với tôi, việc con sói bỏ trốn, chỉ đơn thuần là nó muốn đi ra ngòai."

Sau câu đùa cợt này, cả Thomas và vợ ông cùng phá lên cười ầm ĩ, khiến tôi cảm thấy câu trả lời như vậy đã được chuẩn bị trước, và tòan bộ lời giải thích của ông ta chỉ là một sự chơi khăm công phu. Tất nhiên là tôi không thể giải thích mọi chuyện theo cái cách của ngài Thomas đáng kính, bởi vì tôi nghĩ chắc chắn là ông ta có thể nói một cái gì đó, nên tôi nói, "Nào, thưa ông Bilder, có một nữa xôrơven đang dự định rời khỏi túi tôi và nữa còn lại đang chờ đợi để được nêu lên những gì ngài nói với tôi những phỏng đóan của ngài về những sự việc đã xảy ra."

"Vâng, thưa Ngài,"ông ta lanh lẹ trả lời. "Ngài thứ lỗi cho tôi về cái trò bỡn cợt này, nhưng có một phụ nữ già cứ nháy mắt với tôi, đó là một lời thúc giục tôi hãy cứ làm đi."

"Ê, tôi chẳng bao giờ làm như vậy!" người phụ nữ già kêu lên.

"Ý kiến của tôi là, con sói ấy đang trốn ở đâu đó. Người phụ trách việc truy tìm, cái tên không bao giờ nhớ được mình nói gì, đã nói rằng con sói ấy phi nước đại lên đến tận phương bắc, nhanh hơn bất kỳ con ngựa nào, nhưng tôi chẳng hề tin hắn. Ngài thấy đấy, thưa Ngài, sói hay chó chẳng bao giờ phi nước đại nhanh hơn ngựa trong một quãng đường dài như vậy được.Những con sói thông minh chỉ tìm thấy trong sách vở thôi, và tôi càng tin chắc hơn khi họ thu về từ cuộc săn đuổi một mớ những cái gì đó từ một con chó săn mà họ bảo là một con quái vật kinh khủng đã xé nát nó ra. Nhưng mà, Chúa phù hộ ngài, một con sói hoang dã chỉ là một động vật cấp thấp chẳng thể thông minh hay gan dạ bằng một nữa một con chó tốt, và chẳng bằng một phần tám nếu giao chiến với chó. Con sói ấy sẽ không dám chủ động giao tranh với chó, và chắc hẳn là đang lẩn trốn đâu đó trong công viên, run rẩy, đang đi tìm một nơi mà nó nghĩ là có thể có được một bữa sáng cho nó. Hoặc nó có thể chui tọt xuống một nơi nào đó, chẳng hạn một hầm rượu dưới mỏ than. Tôi sẽ chẳng nghi ngờ thị giác của mình khi thấy một đôi mắt xanh lấp lánh trong bóng tối khi xuống bếp chuẩn bị bữa ăn. Nếu nó không có thức ăn thì nó sẽ đi tìm, và có thể nó sẽ thấy ánh đèn trong một hàng thịt nào đó. Nếu nó không làm vậy, thì khi các chị giữ trẻ bỏ đi chơi với một chàng trai trẻ hay một anh lính nào đó, để em bé nằm lại trong xe đẩy, - hừ, tôi sẽ không ngạc nhiên khi tại cuộc điều tra dân số người ta báo rằng có một em bé mất tích.Thế đấy."

Tôi đưa cho ông ta nữa đồng xôvơranh, và khi đó có tiếng gõ ở ngòai cửa sổ, và khuôn mặt của ông Bilder trở nên tự nhiên gấp đôi với sự kinh ngạc của mình.

"Chúa phù hộ tôi!" ông ta nói."Hình như con Bersicker già đang tự trở về!"

Ông ta đi ra mở cửa, trong khi tôi vô cùng kinh ngạc. Tôi luôn luôn nghĩ rằng một con thú hoang sẽ không bao giờ trở nên thật sự thân thiện với con người bởi những ngăn cách về bản năng đối với chúng ta. Một người có kinh nghiệm sống sẽ càng đồng ý hơn là phản đối ý kiến này.

Tuy nhiên, sau đó, mọi việc càng trở nên đáng ngạc nhiên, khi và Bilder và vợ ông ta cư xử với con sói giống như tôi cư xử với chó. Con thú tỏ ra hiền lành và dễ thương như những con sói cổ xưa được vẽ trong các bức tranh, trước kia là bạn của Red Riding Hood, cho đến khi lòng tin của nó bị phản bội bởi sự giả dối của con người.

Sau đó là một hoạt cảnh pha trộn giữa bi và hài mà tôi khó diễn tả nên lời. Con sói kinh khiếp từng làm tê liệt cả London suốt nữa ngày trời, khiến cho tất cả mọi đứa trẻ trong thị trấn phải kinh hoàng, nay đứng đó với vẻ hối lối, nhận những cái vuốt ve như một đứa con trai lêu lỗng trở về. Ông Bilder già kiểm tra khắp người nó với vẻ sốt ruột và âu yếm, và khi kết thúc thì ông ta với vẻ ăn năn,

"Đấy, tôi biết là cái thằng cha già này sẽ vướng vào một câu chuyện rắc rối mà. Tôi đã từng nói thế còn gì. Xem này, đầu nó bị cắt và vướng đầy những mảnh kính vỡ. Rõ ràng là nó đã bị thương khi phóng qua một bức tường hay đại loại thế. Thật là đáng xấu hổ khi có một số người tự cho phép mình gắn lên đỉnh tường những mảnh chai vỡ. Đó là những gì đã xảy ra. Thôi đi nào, Bersicker."

Ông ta dắt con sói vào chuồng và khóa lại, cho nó những mẫu thịt bê lớn làm nó thỏa mãn con đói, và chấm dứt cuộc nói chuyện.

Tôi cũng ra đi, để báo cáo lại những thông tin đặc biệt mới thu thập được trong ngày hôm nay về cuộc chạy trốn lạ lùng ở sở thú.

NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ DIARY

Ngày 17 tháng Chín. – Tôi định là sau bữa ăn tối sẽ tiếp tục nghiên cứu cuốn sách của mình, công việc này gần đây bị trì hoãn nhiều lần bởi những chuyến thăm Lucy. Thình lình cửa phòng mở tung, bệnh nhân quen thuộc của tôi chạy ào vào, khuôn mặt ông ta nhìn méo xệch đi giận dữ. Tôi bàng hòang, bởi vì chuyện một bệnh nhân lọt vào phòng nghiên cứu của trưởng viện là chưa bao giờ có.

Không hề nói gì, ông ta lao thẳng về phía tôi. Ông cầm một con dao trong tay, và vì vậy lúc này ông ta rất nguy hiểm đối với tôi. Tôi cố giữ cái bàn ngăn cách giữa hai người. Nhưng ông ta quá nhanh và quá mạnh với tôi, tôi còn chưa kịp lấy thăng bằng thi ông ta đã đâm tôi và cắt phải cổ tay trái của tôi một vết sâu.

Tuy nhiên, trước khi ông ta kịp tấn công lại, tôi đã phản công trúng đích bằng tay phải, và ông ta ngã bổ chửng ra nền nhà. Máu chảy ròng ròng từ cổ tay của tôi, và nhỏ xuống thành vũng trên tấm thảm. Tôi thấy ông bạn của tôi không định tấn công nữa, nên quay sang chăm sóc vết thương của mình, tất nhiên là vẩn cảnh giác quan sát cái hình người đang phủ phục trước mặt. Khi những người phục vụ lao vào, chúng tôi tập trung quan sát ông ta, và cái việc ông ta đang làm thật là làm tôi phát ốm. Ông ta nằm dán bụng trên mặt đất, và liếm lấy liếm để vũng máu chảy ra từ vết thương trên cổ tay của tôi, trông chẳng khác gì một con chó. Thật đáng ngạc nhiên là ông ta không phản kháng gì khi những người phục vụ mang ông ta đi, mà chỉ đơn giản lặp đi lặp lại, "Máu là cuộc sống! Máu là cuộc sống!"

Tôi không thể để mất máu lúc này. Gần đây cơ thể tôi đã mất khá nhiều máu, và việc kéo dài đầy tình trạng bệnh lý căng thẳng của Lucy đã khiến tôi kinh sợ. Tôi đã quá mệt và kiệt lực. Tôi cần phải nghỉ ngơi, nghỉ ngơi, nghỉ ngơi. May thay Van Helsing không triệu tập tôi, và không cần phải mất ngủ. Tối nay không được ngủ thì chắc tôi chết mất.

ĐIỆN TÍCH, VAN HELSING, ANTWERP GỬI CHO SEWARD, CARFAX

(Gửi đến Carfax, Sussex, do ở hạt không gửi ngay, nên đã đến chậm hai mươi bốn giờ)

Ngày 17 tháng Chín. – Nhất định phải có mặt ở Hillingham tối nay. Nếu không thể ngồi trông suốt, thì cố thường xuyên vào theo dõi và chú ý xem những bông hoa có đặt đúng chỗ hay không. Rất quan trọng, đừng sơ xuất. Sẽ đến ngay chỗ anh ngày mai.

NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD

Ngày 18 tháng Chín. – Vừa trượt chuyến tàu đi London. Bức điện tín của Van Helsing đã khiến tôi mất hết tinh thần. Tôi đã mất cả một đêm, và tôi không biết biết là có chuyện khủng khiếp nào đã xảy ra. Tất nhiên là có thể mọi việc đều êm đẹp, nhưng cái gì có thể xảy ra nhỉ? Chắc chắn là có một câu chuyện kinh dị ghê gớm nào đó đang treo lơ lửng trên đầu tôi khiến mọi tai nạn có thể xảy ra sẽ ngáng trở những nỗ lực của chúng tôi. Tôi sẽ đem theo một dĩa và có thể tiếp tục hòan thành nốt những điều ghi chép của tôi bằng máy quay dĩa của Lucy.

NHỮNG BẢN GHI CÒN LẠI CỦA LUCY WESTENRA

Ngày 17 tháng Chín, đêm khuya. – Tôi viết những dòng này và để nó lại, để đừng có thêm ai rơi vào những điều khủng khiếp như tôi. Nó ghi lại chính xác những gì xảy ra tối nay. Tôi nghĩ rằng tôi sẽ chết vì bệnh tật, và chỉ còn đủ sức để viết lại, nhưng tôi phải làm xong việc này nếu như tôi chết trong khi đang làm nó.

Tôi lên giường như thường lệ, chú ý để những bó hoa ở những vị trí mà bác sĩ Van Helsing đã chỉ dẩn, và nhanh chóng ngủ thiếp đi.

Tôi bị đánh thức bởi những tiếng vỗ cánh ở cửa sổ, hiện tượng này bắt đầu xảy ra với tôi kể từ ngày tôi mộng du đến tận vách đá ở Whitby mà Mina đã cứu tôi, và bây giờ tôi cảm thấy điều đó một cách rõ ràng. Tôi không sợ, nhưng tôi ước sao có bác sĩ Seward ở phòng bên, bác sĩ Van Helsing nói là sẽ gọi anh ấy tới, để tôi có thể gọi anh ta khi cần thiết. Tôi cố ngủ, nhưng không thể. Cái cảm giác sợ hãi giấc ngủ khi trước lại trở về với tôi, và tôi quyết định sẽ thức. Nhưng giấc ngủ bướng bĩnh kia cứ nhất định đến khi tôi không muốn nó chút nào. Ôi, tôi sợ sự cô độc của mình, tôi mở cửa và gọi lên"Có ai ở đây không?" Không có tiếng trả lời. Tôi sợ đánh thức mẹ, nên đóng cửa lại. Ở bên ngòai, chỗ những bụi cây, có một tiếng gì đó giống như tiếng sói tru, nhưng hung dữ và bí ẩn hơn. Tôi đến cửa sổ và nhìn ra, nhưng không thấy gì, ngòai một con dơi lớn, đang hung hăng đập cánh vào cửa sổ. Tôi leo lên giường trở lại, và quyết định không ngủ nữa. Ngay lúc đó cửa mở ra, và mẹ nhìn vào. Qua cử động của tôi, biết tôi chưa ngủ, mẹ đến và ngồi bên tôi. Mẹ nói với tôi một cách dịu dàng và ngọt ngào hơn thường lệ,

"Mẹ rất lo cho con, con yêu, và đến để xem con có sao không."

Tôi sợ mẹ ngồi như vậy sẽ bị lạnh, nên nó mẹ đi vào ngủ với tôi. Mẹ lên giường, và nằm cạnh tôi. Mẹ không cởi áo dài, vì mẹ nói mẹ chỉ nằm với tôi một chút và sẽ trở về giường. Khi mẹ nằm cạnh tôi, tôi ôm mẹ và mẹ ôm tôi, thì tiếng vỗ và đập cánh từ cửa sổ lại tiếp tục vang lên. Mẹ giật mình, hỏang sợ và kêu lên, "Cái gì thế?"

Tôi cố làm mẹ yên lòng, và cuối cùng cũng thành công, mẹ cũng nằm lại bình tĩnh hơn. Nhưng tôi vẩn nghe trái tim tội nghiệp của mẹ đập thình thịch một cách sợ hãi. Một lúc sau, lại có tiếng sói tru ở khu bụi cây, và liền sau đó là có tiếng va chạm ở cửa sổ, những mảnh kiếng vỡ rơi xuống nền nhà. Cửa sổ bị che khuất đi, cùng với một cơn gió thổi mạnh vào, và giữa khe hở của khung kiếng vỡ là cái đầu của một con chó sói xám lớn, hung dữ.

Mẹ kêu lên kinh hòang, và cuống cuồng bật dậy, hỏang loạn vớ lấy bất kỳ cái gì trong tầm tay có thể giúp mẹ. Trong số đó, có cả chuỗi hoa mà bác sĩ Van Helsing đã khăng khăng đòi đeo qua cổ tôi, mẹ giật lấy nó và xé nó ra khỏi người tôi. Một hai giây sau mẹ ngồi lại, chỉ về phía con sói, từ họng bà thốt lên những âm thanh cuồn cuộn lạ lùng. Rồi bà ngã vật ra như bị sét đánh, đầu bà chạm vào trán tôi làm tôi nảy đom đóm.

Cả căn phòng như quay cuồng. Tôi cố nhìn về phía cửa sổ, nhưng con sói đã rút đầu đi, và cả một đám bụi thổi ào vào khung cửa sổ vỡ, cuộn tròn thành một cột bụi di động giống như những cơn bão cát ở xa mạc. Tôi cố nhúc nhích, nhưng dường như là bị ai đó ám bùa, lại thêm cơ thể của mẹ hình như đã trở nên lạnh tóat vì tim mẹ đã ngừng đập, làm cho tôi không sao cử động, và tôi không còn nhớ gì thêm về những gì xảy ra sau đó.

Khoảng thời gian này không dài, nhưng rất, rất khủng khiếp, cho đến khi tôi phục hồi được ý thức. Gần chung quanh tôi, nghe như có những tiếng chuông rung vang. Những con chó ở những nhà hàng xóm bên cạnh tru lên, và có vẻ như đâu đó trong những bụi cây bên ngòai, đêm đen đang cất lên bài ca của mình. Tôi gần như u mê và ngây dại với thương tích, với đau khổ và với bệnh tật, nhưng âm thanh của bóng đêm hình như giống như giọng của mẹ tôi vọng lại để an ủi tôi. Những âm thanh này cũng làm cho các người hầu gái thức giấc, và tôi có thể nghe tiếng chân trần của họ chạy vội đến bên cửa. Tôi gọi họ, họ đi vào, và khi họ thấy chuyện gì đã xảy ra, khi họ thấy ai đang nằm phía trên tôi, họ la hoảng lên. Gió thổi qua khung cửa sổ vỡ, và cửa đóng sầm lại. Họ nâng thi thể của mẹ lên, sau khi tôi ngồi dậy, họ đặt mẹ lên giường, đắp cho mẹ tấm chăn. Họ trông quá hoảng sợ và căng thẳng đến nỗi tôi ra lệnh cho họ vào phòng ăn và uống mỗi người một cốc rượu. Cánh cửa mở ra trong một thóang và lại đóng sầm lại. Những người hầu gái kêu thét lên, và lao vội vào phòng ăn. Tôi đặt những đóa hoa của tôi lên ngực mẹ. Khi làm điều này, tôi nhớ đến những điều bác sĩ Ven Helsing đã nói với tôi, nhưng tôi không muốn lấy lại nó, ngòai ra, còn có những người hầu sẽ ngồi lại với tôi. Tôi ngạc nhiên không thấy những người hầu không trở lại. Tôi gọi họ, nhưng không có tiếng trả lời, nên tôi đi vào phòng ăn để kiếm họ.

Tim tôi dường như mềm nhũn ra khi tôi thấy chuyện gì xảy ra. Cả bốn người bọn họ nằm lăn bất lực trên sàn nhà, hơi thở nặng nề. Cái bình thon cổ đựng rượu vang trên bàn chỉ còn lại một nữa, nhưng có một mùi chua đáng ngờ tỏa ra từ nó. Tôi nghi ngại, liền xem lại cái bình. Nó có một cái mùi giống như thuốc phiện, và khi nhìn qua cạnh bàn bên kia, tôi thấy chai thuốc mà bác sĩ của mẹ đã cấp cho bà, chai thuốc đã được dùng cạn. Tôi làm gì bây giờ? Tôi làm gì bây giờ? Tôi trở về phòng với Mẹ. Tôi không thể bỏ mẹ lại, và tôi phải một mình bảo vệ cho những người hầu đã ngủ say vì bị ai đó đánh thuốc mê. Một mình còn lại với cái chết! Tôi không dám đi ra ngòai, vì tôi nghe thấy tiếng hú trầm trầm của một con sói bên ngòai khung kính vỡ.

Không khí chung quanh đầy những bụi, di động và cuộn tròn quanh cái lỗ thông ở cửa sổ, sáng lên một thứ ánh sáng xanh lờ mờ. Tôi làm gì bây giờ? Chúa sẽ bảo vệ tôi khỏi những tai họa đêm nay! Tôi sẽ giấu những tờ giấy này vào ngực, để người ta có thể tìm thấy khi khâm liệm tôi. Mẹ đã đi rồi! Và bây giờ là lúc chính tôi cũng sẽ ra đi. Tạm biệt, anh Arthur thân yêu, nếu như em không còn sống qua nỗi đêm nay. Chúa sẽ gìn giữ cho anh, và Chúa sẽ giúp em!
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





Ác quỉ Dracula - Chương 7-8-9-10-11 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Ác quỉ Dracula - Chương 7-8-9-10-11   Ác quỉ Dracula - Chương 7-8-9-10-11 Icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
Ác quỉ Dracula - Chương 7-8-9-10-11
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
..:: WORLD ♥ OF ♥ TEEN † HOÀNG HOA THÁM † HIGH SCHOOL ::.. :: Box không dành cho người yếu tim!!-
Chuyển đến